Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Wikipedia tiếng Việt

Đăng ngày 10 May, 2023 bởi admin

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) là một nhà nước ở Đông Nam Á được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 với thủ đô là Hà Nội. Với Tổng tuyển cử năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành nhà nước có chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam[3][4], được Quốc hội Việt Nam khóa I thông qua mặc dù một số vùng lãnh thổ sau đó bị các lực lượng ngoại quốc và nhà nước khác quản lý về hành chính trên thực tế. Cuối Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, lãnh thổ Việt Nam bị chia làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời theo Hiệp định Genève. Theo Hiệp định Genève 1954, vùng lãnh thổ thuộc quản lý hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giáp với Trung Quốc ở phía bắc, Lào ở phía tây, và phía nam giáp với lãnh thổ quản lý bởi Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa, sau đó được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản). Cũng trong giai đoạn này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng được gọi là miền Bắc Việt Nam (tiếng Anh: North Vietnam, nguyên văn ‘Bắc Việt Nam’) để chỉ vị trí địa lý của phần lãnh thổ Việt Nam được quản lý bởi nhà nước này theo Hiệp định Genève. Từ năm 1954–1976, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước độc lập đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong Chiến tranh quốc tế thứ hai, Nước Ta từ chỗ là thuộc địa của Pháp đã trở thành Đế quốc Việt Nam thân Nhật Bản sau khi Pháp đầu hàng và trao hàng loạt Đông Dương cho Phát xít Nhật Bản vào tháng 3 năm 1945. Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, gồm có cả Việt Minh ở Nước Ta và Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công xuất sắc, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được công bố xây dựng tại Thành Phố Hà Nội, chính quyền sở tại lâm thời được thiết lập trên hàng loạt quốc gia. quản trị Hồ Chí Minh, người chỉ huy Việt Minh, trở thành người đứng đầu chính phủ nước nhà mới và đã ngay lập tức tổ chức triển khai cuộc Tổng tuyển cử toàn nước vào ngày 06/01/1946 để Nước Ta có cơ quan chính phủ và nhà nước chính danh trên toàn nước. [ 5 ] Ngay sau khi Pháp quay lại Nước Ta với sự tương hỗ của Anh và Mỹ, thì Kháng chiến chống Pháp đã nổ ra vào năm 1946. Sau 9 năm cuộc chiến tranh, ngày 21 tháng 7 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành thắng lợi, Hiệp định Genève được ký kết giữa những bên tham chiến, Nước Ta trong thời điểm tạm thời bị chia làm 2 vùng tập trung trong thời điểm tạm thời, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Lực lượng quân sự chiến lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc Nước Ta, trong khi đó, Quân đội Pháp và Quân đội Quốc gia Nước Ta ( thuộc Liên hiệp Pháp ) tập trung về miền Nam Nước Ta, quân Pháp sẽ rút hết khỏi Nước Ta sau 2 năm .

Hiệp định Genève xác định cuộc tổng tuyển cử thống nhất lãnh thổ Việt Nam sẽ diễn ra vào năm 1956. Người Pháp chấp nhận đề nghị của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trưởng phái đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[6], là cuộc tổng tuyển cử thống nhất sẽ được đặt dưới sự giám sát của các ủy ban tại chỗ[7]. Hoa Kỳ không công nhận Hiệp định Genève, đồng thời thực hiện “Kế hoạch can thiệp” nhằm trợ giúp cho Quốc gia Việt Nam (sau đó là Việt Nam Cộng hòa) từ chối thi hành tuyển cử[8]. Năm 1955, cuộc trưng cầu dân ý bị gian lận đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại (nguyên là hoàng đế nhà Nguyễn), sau đó chính quyền Việt Nam Cộng hòa được thành lập tại miền Nam Việt Nam do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống.[9] Đến hạn năm 1956, Ngô Đình Diệm tuyên bố từ chối thi hành tuyển cử, và cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam đã không thể diễn ra, khiến lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt về mặt nhà nước.[10] Thậm chí, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn cho rằng hành động của Ngô Đình Diệm còn nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.[11]

Trong Chiến tranh Việt Nam (1955–1975), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (còn gọi là Bắc Việt Nam) được sự hỗ trợ của các đồng minh ở phe Xã hội chủ nghĩa gồm Liên Xô và Trung Quốc đã chiến đấu chống lại quân đội của Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh như Hoa Kỳ, Australia, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và New Zealand. Ở thời điểm cao trào của cuộc chiến, Hoa Kỳ huy động tới 600.000 quân chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Đây là một trong những cuộc chiến tranh khốc liệt nhất kể từ sau Thế chiến thứ II, kéo dài 21 năm. Năm 1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời (chính phủ do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập) và được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận là chủ thể có chủ quyền pháp lý tại miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là đại diện cho nhân dân miền Nam trong cuộc chiến chống Mỹ, và không từ chối sự thống nhất chủ quyền trên cả nước. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi hoàn toàn của lực lượng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng sự hỗ trợ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1975. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là đại diện của hai nửa Việt Nam về mặt quản lý hành chính (miền Bắc và miền Nam) đã thống nhất về mặt Nhà nước thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua cuộc Tổng tuyển cử, vào ngày 2 tháng 7 năm 1976.

Lịch sử

Thành lập

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trên Quảng trường Ba Đình.
Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được sử dụng trong giai đoạn 1945–1947 và 1954–1955.
Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được sử dụng trong giai đoạn từ 1955 đến 1976.
Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn nước Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào ( Tuyên Quang ) nhận định và đánh giá thời cơ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền sở tại đã đến, đồng thời cử ra Ủy ban Khởi nghĩa Toàn quốc do Trường Chinh làm quản trị. Đêm 13 tháng 8, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1, lôi kéo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền sở tại [ 12 ] .Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Việt Minh tổ chức triển khai Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội này trải qua 10 chủ trương lớn của Việt Minh, trải qua Lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết định hành động Quốc kỳ nền đỏ, ở giữa có sao vàng 5 cánh, chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Nước Ta, sau này trở thành nhà nước Cách mạng Lâm thời, do Hồ Chí Minh làm quản trị [ 13 ] .Từ 14 tháng 8 năm 1945, một số ít cán bộ Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng địa thế căn cứ vào tình hình hiện tại và thông tư ” Nhật – Pháp bắn nhau và hành vi của tất cả chúng ta ” đã quyết định hành động phát động nhân dân khởi nghĩa tại những tỉnh miền Bắc, miền Trung như Thanh Hóa, Tỉnh Thái Bình, Khánh Hòa, … buộc Đế quốc Việt Nam giao chính quyền sở tại cho nhân dân. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra khắp cả nước [ 14 ] [ 15 ] .Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh tổ chức triển khai cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn TP.HN. Đại diện Việt Minh công bố : Tổng khởi nghĩa ! Sau đó, 1 cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm sai, cơ quan đầu não của nhà nước Đế quốc Việt Nam tại miền Bắc, và nhanh gọn làm chủ hàng loạt khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không kháng cự. Khâm sai Bắc Kỳ Nguyễn Xuân Chữ ( người mới đứng ra sửa chữa thay thế ông Phan Kế Toại ) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại HĐ Hà Đông [ 16 ] .Trong Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản Đông Dương ( tổ chức triển khai nòng cốt của Việt Minh ) đóng vai trò chỉ huy chung thống nhất, đưa ra những quyết sách tổ chức triển khai Tổng khởi nghĩa giành chính quyền sở tại từ tay chính quyền sở tại Đế quốc Việt Nam thân Nhật và Đế quốc Nhật Bản, dù trên trong thực tiễn, ở 1 số ít tỉnh thành chưa có hay Phục hồi lại tổ chức triển khai đảng. Tại miền Bắc, 1 số ít tỉnh chưa có tổ chức triển khai đảng, nhưng Mặt trận Việt Minh hoạt động giải trí rất mạnh. Tại miền Trung, hoạt động giải trí của Việt Minh và Đảng Cộng sản khá mạnh. Trong khi đó, ở Nam Bộ, hoạt động giải trí của Việt Minh yếu hơn, Đảng Cộng sản chưa Phục hồi không thiếu sau Nam Kỳ khởi nghĩa. Trong Cách mạng tháng Tám, tổ chức triển khai Việt Minh đã lôi cuốn được cả lực lượng Thanh niên tiền tuyến do nhà nước Đế quốc Việt Nam xây dựng gia nhập Mặt trận Việt Minh. Tại 1 số ít tỉnh Nam bộ, Thanh niên tiền phong đóng vai trò quan trọng giành chính quyền sở tại [ 17 ] .Ngày 27 tháng 8 năm 1945, theo đề xuất của Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng Nước Ta được cải tổ thành nhà nước Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều Ủy viên Việt Minh trong Ủy ban Dân tộc Giải phóng Nước Ta đã tự nguyện rút ra khỏi nhà nước để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia [ 13 ] .

Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bảo Đại đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn và sau đó trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu. Bảo Đại trở thành “công dân Vĩnh Thụy”. Bản Tuyên ngôn Thoái vị có câu nói nổi tiếng: “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị” [18][19].

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 ( đây cũng là ngày Quốc khánh của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nước Ta lúc bấy giờ ), sau Cách mạng tháng Tám dưới sự chỉ huy của Mặt trận Việt Minh .Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực thi bầu cử Quốc hội tiên phong vào ngày 6 tháng 1 năm 1946. Hiến pháp thông qua ngày 9 tháng 11. Trong quá trình đầu khi xây dựng chính quyền sở tại toàn nước, Việt Minh mà Đảng Cộng sản làm nòng cốt giữ vai trò chỉ huy. Trong thời hạn ngắn, chính quyền sở tại gồm có nhiều tổ chức triển khai, đảng phái chính trị tham gia ở cấp TW và địa phương ( Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt, Trốtxkit, Cao Đài, Hòa Hảo, … ). Sau vài năm hoạt động giải trí bí hiểm, Đảng Cộng sản ra hoạt động giải trí bán công khai trong tổ chức triển khai Việt Minh và Liên Việt, và từ năm 1951, hoạt động giải trí công khai minh bạch, chính thức giữ vai trò chỉ huy Nhà nước. Tham gia chính quyền sở tại sau năm 1954 còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, do Đảng Lao động chỉ huy .

Giai đoạn 1945 – 1946

Pháp quay trở lại Nước Ta

Ngày 28 tháng 11 năm 1943, trước Hội nghị Tehran ( Iran ), Tổng thống Mỹ đã có quan điểm đặt Đông Dương dưới sự quản trị quốc tế. Liên Xô đã chấp thuận đồng ý đề xuất kiến nghị này. Nhưng sau đó, Mỹ ủng hộ Pháp để lôi kéo Pháp vào mặt trận chống Liên Xô. Mỹ cũng nhường chính quyền sở tại Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật .Sau khi Nhật thay máu chính quyền Pháp và công bố trao trả độc lập cho Nước Ta, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ ” Tuyên cáo Nước Ta độc lập “, công bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, công bố Phục hồi chủ quyền lãnh thổ Nước Ta, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ [ 20 ] .Ngày 24 tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật thay máu chính quyền Pháp tại Đông Dương, de Gaulle đã công bố khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ Pháp tại Đông Dương, nhưng sẽ cho Đông Dương tự trị và thực thi nền tự trị với Hội đồng Liên bang được xây dựng với không quá 50 % là người bản xứ .Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại đã ký Đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội những Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5, giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, chính phủ nước nhà Trần Trọng Kim đặt Quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam .Tướng Nhật, Tscuchihashi, cho rằng chỉ cần Nước Ta độc lập trên danh nghĩa hơn là thực ra, và cơ quan chính phủ mới của Nước Ta phải được Nhật trấn áp ngặt nghèo [ 21 ]. Theo tác giả Daniel Grandcléme, thoạt đầu Phạm Quỳnh được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài những ông ta thấy ngay ” nền độc lập ” có những số lượng giới hạn như giống như hồi còn chính sách bảo lãnh Pháp : Không có tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập kinh tế tài chính … Nhật liền chọn một nhân vật ôn hòa hơn và thân thiện với Nhật Bản. Đó là nhà sử học Trần Trọng Kim, đang ở Nước Singapore. Nhà vua Bảo Đại chẳng có vai trò gì trong việc chỉ định này [ 22 ] .

Theo Trần Trọng Kim, ông được vua Bảo Đại yêu cầu lập chính phủ mới vì theo ý nhà vua “Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó với mọi việc… Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.” [23]. Thành viên nội các do Trần Trọng Kim lựa chọn, chứ không phải Nhật Bản bắt phải dùng những người của họ đã định trước[23]. Để chuẩn bị nội các mới, Bảo Đại hai lần gửi điện vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế, nhưng cả hai bức điện đều bị tình báo Nhật ngăn chặn, vì thật ra phương án sắp đặt cho hoàng thân Cường Để (1882–1951) lên ngôi vua và Ngô Đình Diệm giữ chức Thủ tướng trước đó không lâu đã bị giới lãnh đạo quân sự Nhật hủy bỏ, do không muốn gây nhiều xáo trộn, để thay vào bằng kế hoạch Bảo Đại–Trần Trọng Kim cũng được chuẩn bị sẵn từ hơn một năm trước. Có ý kiến cho rằng ở Việt Nam, đa số quần chúng tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt với sự “độc lập” dưới chế độ quân quản của quân đội Nhật[24].

Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Trần Trọng Kim công bố ” bảo vệ độc lập ” giành được 9 tháng 3, và ngày 18 tháng 8 dự trù tạo ra một ủy ban giải phóng dân tộc bản địa, gồm có tổng thể những đảng phái chính trị để chỉ huy việc giành lại độc lập cho Nước Ta [ 25 ]. Theo khuyến nghị của ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bảo Đại gửi thông điệp cho Tổng thống Truman, vua nước Anh, Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tướng de Gaulle đề xuất công nhận độc lập của Nước Ta. Tuy nhiên đến 24 tháng 8 ông đã thực thi câu vấn đáp Hội đồng Cơ mật quyết định hành động thoái vị ” để không phải là một trở ngại cho sự giải phóng của quốc gia ” [ 26 ] .

Ngày 18 tháng 8 năm 1945, vua Bảo Đại tuyên bố sự độc lập của Việt Nam sau khi Nhật đầu hàng, được công bố vào tháng 3 và đồng thời gửi một thông điệp đến De Gaulle đề nghị công nhận nền độc lập của Việt Nam. Thông điệp này có đoạn “Ông sẽ hiểu tốt hơn nếu ông có thể chứng kiến những gì đang diễn ra ở đây, nếu ông có thể cảm nhận được khát khao độc lập đến tận tâm can của mỗi người mà không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Thậm chí nếu ông muốn tái lập chế độ cai trị của người Pháp ở đây thì nó sẽ không tiếp tục được tuân phục; mỗi làng mạc sẽ trở thành một ổ kháng chiến, mỗi người cộng tác cũ thành một kẻ thù và những quan chức, những tên thực dân của ông chính họ sẽ yêu cầu rời khỏi không khí ngạt thở này… Chúng ta có thể dễ dàng hiểu nhau và trở thành bạn bè nếu ông hủy bỏ tuyên bố trở thành ông chủ của chúng tôi một lần nữa“[27]. Tuy nhiên, De Gaulle không có ý định để Việt Nam độc lập, và cũng không chấp nhận duy trì ngôi vua của Bảo Đại, người đã thỏa hiệp với Nhật Bản (kẻ thù của khối Đồng Minh). Ông ta dự kiến sẽ hậu thuẫn cho một chế độ quân chủ mà người đứng đầu là hoàng thân Vĩnh San, được xem như là một người “Gaullist”[28].

Từ cuối tháng 9 năm 1945, quân đội Pháp núp dưới bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật, đã quay trở lại miền Nam Nước Ta. Sự việc này nằm trong giám sát của chính quyền sở tại Charles de Gaulle khi Đại chiến Thế giới II chưa kết thúc .Ngày 06/01/1946, nhà nước cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức triển khai Tổng tuyển cử trên toàn nước. [ 29 ]
Ngày 28 tháng 2 năm 1946, tại Trùng Khánh, Pháp ký với nhà nước Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch Hiệp ước Hoa – Pháp để quân đội Nước Trung Hoa rút về nước, và đổi lại Pháp trả lại những tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Nước Trung Hoa cũng như nhượng cho Nước Trung Hoa 1 số ít quyền hạn tại miền Bắc Nước Ta như việc khai thác một đặc khu tại cảng Hải Phòng Đất Cảng và miễn thuế cho sản phẩm & hàng hóa Trung Quốc luân chuyển qua Nước Ta .Trong thời hạn đầu, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhất quyết chống lại việc Pháp tái lập chủ quyền lãnh thổ ở Đông Dương. Sau đó, theo quan điểm của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ( đã lui vào hoạt động giải trí bí hiểm ), tháng 3 năm 1946, nếu Pháp cho Đông Dương tự trị theo công bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 thì nhất quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ thì hòa để phá vỡ thủ đoạn của ” bọn Tàu trắng, bọn phản động Nước Ta và bọn phát xít Nhật còn lại “. Đến ngày 6 tháng 3, 1946, nhà nước ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946, được cho phép quân đội Pháp ra Bắc thay thế sửa chữa quân Trung Hoa giải giáp quân đội Đế quốc Nhật Bản. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân. Ngược lại, nhà nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một vương quốc tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ nước nhà, nghị viện, quân đội và kinh tế tài chính riêng. Trước đó Pháp và Nước Trung Hoa đã ra thỏa thuận hợp tác tại Trùng Khánh ( Hiệp ước Hoa – Pháp ), chấp thuận đồng ý cho quân Pháp ra miền Bắc Nước Ta ( 28 tháng 2 ) nhưng khi quân Pháp đổ xô vào TP. Hải Phòng đã xung đột với quân Trung Hoa dân quốc và lực lượng quân sự chiến lược địa phương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa .Một số thành viên trong nhà nước Liên hiệp thuộc Việt Quốc, Việt Cách, … không ưng ý việc này, đã lên tiếng phản đối, dân chúng cũng có người do dự, nhưng quản trị Hồ Chí Minh đã bình tĩnh lý giải và động viên đồng bào để đồng bào hiểu rõ ” cần phải biết chịu đựng quyết tử để mưu sự nghiệp lớn ” [ 30 ]. Mặc dù Hiệp định có chữ ký của Vũ Hồng Khanh nhưng đa phần chỉ huy Việt Quốc rút sự ủng hộ của họ cho cơ quan chính phủ Hồ Chí Minh để phản đối, chống lại những gì họ gọi là ” thân Pháp ” trong chủ trương của Việt Minh. Bảo Đại rời khỏi quốc gia vào ngày 18 tháng 3, ngày quân Pháp vào TP. Hà Nội, theo phái đoàn ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Trùng Khánh để tái chứng minh và khẳng định tình hữu nghị Việt – Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn hai nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa-Pháp. Một hội nghị liên tịch được tổ chức triển khai để khai thông những sự không tương đồng dẫn đến việc xây dựng Hội Liên hiệp Quốc dân Nước Ta [ 31 ] .Hiệp định Sơ bộ ấn định lực lượng Pháp sau khi trở ra Bắc, phải rút hết sau một thời hạn hai bên pháp luật không quá 5 năm. Trong khi đó hai bên đình chiến. Nước Pháp cũng công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nước tự do, có chính phủ nước nhà, nghị viện, quân đội, kinh tế tài chính riêng và là một thành viên trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Vấn đề độc lập của Nước Ta bị gác sang một bên vì Pháp không muốn bàn tới .
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, phái đoàn chính phủ nước nhà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu khởi hành sang Pháp tham gia Hội nghị Fontainebleau liên tục đàm phán về những pháp luật đề ra theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3. Cùng ngày, quản trị Hồ Chí Minh cũng lên đường sang Pháp tiếp xúc với chính giới Pháp và hội đồng người Việt tại Pháp. Nội dung chương trình nghị sự được hai đoàn thỏa thuận hợp tác là sẽ bàn luận về những yếu tố như ( đã nêu tại Hiệp định sơ bộ 6/3 ) [ 32 ] :

  • Địa vị của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, về quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
  • Quan niệm tổng quát về Liên bang Đông Dương.
  • Vấn đề thống nhất nước Việt Nam và việc trưng cầu dân ý.
  • Chi tiết về Liên bang Đông Dương và vấn đề quyền lợi kinh tế của Pháp ở Đông Dương.
  • Dự thảo Hiệp ước.

Hội nghị Fontainebleau sau đó diễn ra lê dài hơn hai tháng, từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946 nhưng không đem lại tác dụng đơn cử nào vì hai bên đã bế tắc ở hai điểm sự không tương đồng then chốt [ 33 ] :

  • Việc thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm Bắc Kỳ và Trung Kỳ).
  • Độc lập chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quan điểm của Pháp bác bỏ độc lập mà chỉ xét tự trị hay độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Hơn nữa họ đòi là phải tái lập trật tự thứ nhất rồi sau đó sẽ mở cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về yếu tố thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điểm gây nhiều khó khăn vất vả nhất là việc nhà nước Pháp đã đơn phương được cho phép xây dựng Nam Kỳ quốc theo niềm tin Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của tướng De Gaulle, tách rời khu vực này khỏi những trào lưu độc lập ở hai miền Bắc và Trung. Ngày 27 tháng 5 Cao ủy Đông Dương Georges D’Argenlieu lại còn trải qua việc xây dựng Xứ Thượng Nam Đông Dương, chia cắt Nước Ta thành nhiều mảnh [ 34 ] [ 35 ] .
Nước Ta nhượng bộ về mọi mặt : kinh tế tài chính, kinh tế tài chính và quân sự chiến lược nhưng phái đoàn Nước Ta đòi Pháp ấn định thời hạn để thực thi cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ. Thấy Pháp chần chừ không vấn đáp dứt khoát, phái đoàn Nước Ta bỏ bàn hội nghị ra về ngày 13 tháng 9. Hội nghị Fontainebleau vì thế tan vỡ .

Tuy nhiên Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Marius Moutet không chấp nhận thất bại. Trong khi Phạm Văn Đồng bỏ về nước, Hồ Chí Minh, Hoàng Minh Giám và Dương Bạch Mai nán lại Paris. Nhằm cứu vớt hòa bình lần cuối Hồ Chí Minh thảo một bản nghị ước vào chiều ngày 11 và trao cho Marius Moutet[36]. Ba ngày sau, 14 tháng 9 năm 1946, Marius Moutet hồi đáp với một bản nghị ước khác. Đạt được đồng thuận, Hồ Chí Minh đã đến tư dinh của Marius Moutet lúc nửa đêm ngày 14 tháng 9 năm 1946 để ký văn bản này, tức Tạm ước Việt – Pháp (Modus vivendi)[33].

Ngày 14 tháng 9 năm 1946, Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Tạm ước Việt – Pháp (Modus vivendi). Trong bản Tạm ước này, hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp cùng bảo đảm với nhau về quyền tự do của kiều dân, chế độ tài sản của hai bên; thống nhất về các vấn đề như: hoạt động của các trường học Pháp, sử dụng đồng bạc Đông Dương làm tiền tệ, thống nhất thuế quan và tái lập cải thiện giao thông liên lạc của Liên bang Đông Dương, cũng như việc thành lập ủy ban tạm thời giải quyết vấn đề ngoại giao của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cam kết ưu tiên dùng người Pháp làm cố vấn hoặc chuyên môn, và hai bên đã đồng ý chấm dứt mọi hành động xung đột, vũ lực cũng như tuyên truyền chống đối nhau, phóng thích tù nhân chính trị, bảo đảm không truy bức người của bên kia, và hợp tác để những kiều dân hai bên không làm hại nhau. Tạm ước cam kết sẽ có một nhân vật do Việt Nam chỉ định và Chính phủ Pháp công nhận được ủy nhiệm cạnh thượng sứ để xếp đặt cộng tác thi hành những điều thỏa thuận này. Cuối cùng, Chính phủ hai bên sẽ tiếp tục đàm phán (chậm nhất là vào tháng 1 năm 1947) để tìm cách ký kết những bản thoả thuận riêng nhằm dọn đường cho một hiệp ước chung dứt khoát[37][38].

Kêu gọi sự ủng hộ của những cường quốc

Ngoài ra, quản trị Hồ Chí Minh còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ vương quốc trên quốc tế lôi kéo công nhận nhà nước Nước Ta mới được xây dựng cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm ( Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman [ 39 ], lãnh tụ Liên Xô Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp, … ) .

Chiến tranh bùng nổ

Đầu tháng 11 năm 1946, xung đột quân sự chiến lược tiên phong nổ ra tại Hải Phòng Đất Cảng do Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tranh chấp quyền trấn áp tổng thể những yếu tố tương quan đến xuất nhập khẩu. Hai ngày sau, Tướng Jean-Étienne Valluy, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm toàn quyền trấn áp thành phố. Ngày 23 tháng 11, Đại tá Pierre Louis Dèbes gửi tối hậu thư nhu yếu người Việt ra khỏi thành phố Tàu của TP. Hải Phòng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh cho tàu chiến Pháp bắn phá thành phố, trong một buổi chiều đã giết chết hơn 6.000 người dân [ 40 ] hoặc hơn 2 nghìn người theo một nguồn khác [ 41 ]. Sau đó, khoảng chừng 2000 lính Pháp tràn vào thành phố trong khi pháo liên tục bắn phá vùng ngoại ô. Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Chiến sự lê dài cho đến khi người lính Việt Minh sau cuối rút khỏi mặt trận vào ngày 28 tháng 11 .Sau sự kiện Hải Phòng Đất Cảng, kế hoạch phòng thủ TP. Hà Nội mở màn được chuẩn bị sẵn sàng để cơ quan chính phủ Nước Ta có thời hạn sơ tán về những vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng chính phủ nước nhà đóng tại Bắc Bộ phủ và một doanh trại gần đó. Còn phần đông lực lượng quân sự chiến lược của Nước Ta trong vùng đóng tại ngoại ô của Hà Nội Thủ Đô. Bù lại, trong nội thành của thành phố có gần 10.000 du kích và tự vệ. Đối địch với họ là vài nghìn lính Lê dương Pháp .

Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đã được chuẩn bị trước ở bên ngoài thành phố. Trong thành phố, quân dân Hà Nội bắt đầu xây dựng các chiến lũy phòng thủ trên đường phố, quân Pháp cũng củng cố các vị trí phòng thủ của mình. Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi Pháp rút về các vị trí họ đã giữ từ trước ngày 20 tháng 11, nhưng ông không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam hy vọng tránh được chiến tranh – cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. “Nhưng nếu chúng tôi phải đối mặt với chiến tranh”, ông nói, “chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ bỏ quyền tự do của mình”.

Ngày 12 tháng 12, Léon Brum, Thủ tướng mới của Pháp công bố dự tính xử lý xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Nước Ta. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với những gợi ý đơn cử về cách xử lý xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Hồ Chí Minh, nhu yếu chuyển tiếp tới Paris .Trong khi cơ quan chính phủ Pháp đang chần chừ về nhu yếu của Cao ủy Đông Dương Georges D’Argenlieu về việc tăng quân và lập tức hành vi quân sự chiến lược chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d’Argenlieu về việc giữ sự hiện hữu của Pháp tại Đông Dương, đã quyết định hành động rằng cần phải khiêu khích TP. Hà Nội nhằm mục đích tạo xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá những chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Hồ Chí Minh, Vallue viết thêm phản hồi của mình, cảnh báo nhắc nhở rằng sẽ nguy khốn nếu trì hoãn những hành vi quân sự chiến lược cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến Paris, khi đó đã quá muộn .Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào những đường phố Thành Phố Hà Nội để phá những công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún ( TP.HN ), rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Thành Phố Hà Nội đến tận cầu Long Biên và vây hãm gây sức ép đồn Công an Q. 2 của TP.HN. Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm hết dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai công bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở TP. Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, những lực lượng Việt Minh khởi đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau ( ngày 19 tháng 12 ), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi cơ quan chính phủ Nước Ta đình chỉ mọi hoạt động giải trí chuẩn bị sẵn sàng cuộc chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Thành Phố Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì bảo mật an ninh trong thành phố .

Đối với người Việt, tình hình không khác với sự kiện Hải Phòng hồi tháng trước, khi Đại tá Dèbes cũng đã ra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng thời, sợ rằng bức điện gửi Thủ tướng Brum có thể chưa đến nơi, ông gửi một bức điện thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng cứu vãn hòa bình, Hồ Chủ tịch viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàm phán “tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại“. Sau khi được tin Sainteny từ chối gặp Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, và tuyên bố rằng trong tình hình hiện tại, không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đã viết, thông qua văn kiện “Toàn dân kháng chiến” do Tổng Bí thư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối cùng ngày. Chiến tranh Đông Dương bắt đầu.

Leclerc, người tham gia Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3, cũng đã điều tra sự cố dẫn đến xung đột tại miền Bắc Việt Nam và việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố kháng chiến khiến các giải pháp chính trị thất bại. Ngày 27 tháng 1 năm 1947, tuyên bố của chính phủ Pháp về “Chi tiết các mục tiêu theo đuổi của Pháp ở Đông Dương” có nêu “để đạt được càng sớm càng tốt với các đại diện đủ điều kiện của người An Nam một thỏa thuận phù hợp với nguyện vọng chính đáng trong Liên hiệp Pháp (…) trên cơ sở độc lập của đất nước cùng với việc duy trì lợi ích của Pháp và sự hiện diện của (các) căn cứ chiến lược của lực lượng Pháp. Một hỗ trợ lớn và ngay lập tức phải nhằm củng cố chính quyền của Nam Kỳ, nhưng “phần nào đủ điều kiện” để không đóng cánh cửa đàm phán với Việt Minh.” [28]

Giai đoạn 1946 – 1954

Giai đoạn 1954 – 1976

Ký kết Hiệp định Genève

Năm 1954, quân viễn chinh Pháp bị vượt mặt tại trận Điện Biên Phủ trong khi Pháp đang đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc chấm hết cuộc chiến tranh tại Đông Dương .Lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại bàn đàm phán là : Pháp phải thừa nhận chủ quyền lãnh thổ và độc lập của Nước Ta, Campuchia và Lào và rút quân đội khỏi 3 nước này ; triển khai tổng tuyển cử ở 3 nước để xây dựng những cơ quan chính phủ thống nhất. Những cuộc tuyển cử trên phải được thực thi với điều kiện kèm theo tổng thể những đảng phái và tổ chức triển khai yêu nước được tự do hoạt động giải trí dưới sự giám sát của những ủy ban địa phương. Nếu những điều kiện kèm theo trên được đồng ý chính phủ nước nhà những nước Đông Dương đồng ý chấp thuận xem xét yếu tố gia nhập khối Liên hiệp Pháp. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ý kiến đề nghị tham gia đàm phán có đại diện thay mặt nhà nước kháng chiến Lào, Campuchia nhưng những nước phương Tây phủ nhận .

Theo Hiệp định Genève về Việt Nam được ký kết giữa đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Liên hiệp Pháp, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân đội Liên hiệp Pháp phải đình chỉ chiến sự. Việt Nam tạm thời bị chia thành hai vùng có giới tuyến là vĩ tuyến 17 trong 2 năm. Vĩ tuyến 17 được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời (tiếng Anh: military demarcation line) chia Việt Nam làm hai vùng tập kết. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc Việt Nam; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam Việt Nam. Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) không ký vào Hiệp định Genève với lý do hiệp định “gây chia cắt Việt Nam” [42] và đẩy Quốc gia Việt Nam vào thế nguy hiểm[43]. Hiệp định Genève 1954 không nhắc đến Quốc gia Việt Nam (État du Viêt Nam, State of Vietnam) hay Việt Nam Cộng hòa (Republic of Vietnam) vốn chưa tồn tại (thành lập năm 1955)[44][45]. Trên thực tế, Quốc gia Việt Nam được nhận định là không có đủ thẩm quyền để ký kết do vẫn là thành viên của Liên hiệp Pháp.[46] Do đó, mặc dù không ký kết nhưng Quốc gia Việt Nam và hậu thân của nó là Việt Nam Cộng hòa vẫn phải có trách nhiệm thi hành Hiệp định và các văn bản liên quan do Pháp ký hoặc không có tuyên bố phản đối.[47]

Việc tập trung quân đội hai phía dự kiến triển khai xong trong thời hạn 300 ngày. Các lực lượng Pháp rút khỏi Lào trong 120 ngày, Campuchia 90 ngày. Các đơn vị chức năng quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng rút khỏi Lào, Campuchia. Tại Lào, quân đội kháng chiến tập trung tại Phong sa lỳ và Sầm Nưa. Các lực lượng kháng chiến Campuchia phục viên tại chỗ. Các cơ quan chính phủ Vương quốc Lào và Campuchia bảo vệ cho mọi công dân hưởng quyền tự do ghi trong Hiến pháp. Bầu cử tự do được tổ chức triển khai tại Campuchia và Lào vào năm 1955 và tại Nước Ta theo Tuyên bố sau cuối của Hiệp định là tháng 7 năm 1956 .

Ngay sau thời khắc chia Việt Nam ra làm hai vùng tập trung quân sự, đã diễn ra cuộc di cư lớn của gần 900.000 người dân miền Bắc, mà đa số là người Công giáo, vào miền Nam, với niềm tin “theo Chúa vào Nam”. Một số người tin theo lời người Pháp và Mỹ cho rằng họ sẽ bị những chính sách của chính quyền miền Bắc bức hại bản thân họ. Khoảng 140 ngàn người khác ở miền Nam, gồm phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền Nam hoặc những người đi theo chủ nghĩa cộng sản, tập kết ra miền Bắc theo Hiệp định Genève. Theo Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève, ranh giới quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 không phải là biên giới chính trị hay lãnh thổ. Điều 6 ghi nhận: “… đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ.” [48], và sẽ có một cuộc tổng tuyển cử ở cả hai miền sau hai năm (1956) để thống nhất về mặt nước.[49]

Về sau, báo chí chính thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hiệp định Paris 1973 tiếp tục khẳng định rằng hiệp định Genève 1954 không chia đôi đất nước Việt Nam. Trong bài chính luận “Sách Trắng của Mỹ” trên báo Nhân dân (số 3992) nhằm phản đối việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại: “Giới tuyến 17 là tạm thời, không phải là giới tuyến chính trị, hoặc giới tuyến lãnh thổ; Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do khắp cả nước vào nǎm 1956.” [50]

Hiệp định Paris 1973 cũng nhắc lại điểm cốt yếu này ở chương V, điều 15 điểm a: “(a) Giới tuyến quân sự tại vĩ tuyến 17 chỉ là tạm thời và không là một ranh giới về chính trị hay lãnh thổ, như quy định trong đoạn 6 của Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneve năm 1954.” [51][52]

Hỗ trợ thực thi cuộc chiến tranh ở miền Nam

Quân đội Nhân dân Việt Nam đang hành quân trên đường Trường Sơn qua Lào để vào miền Nam Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, chính quyền sở tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố sẵn sàng chuẩn bị đàm phán với ” những nhà đương cục Miền Nam “, thực thi tổng tuyển cử thống nhất quốc gia, khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ Nước Ta Dân chủ cộng hòa trên toàn nước, Quốc hội và nhà nước Nước Ta Dân chủ cộng hòa là của cả nước, không công nhận cuộc trưng cầu dân ý 1955 mà họ gọi là ” phạm pháp ” ở miền Nam Nước Ta. Sau 2 năm, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, chính phủ nước nhà Nước Ta Cộng hòa phủ nhận tham gia cuộc tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia theo Bản công bố sau cuối của Hội nghị Genève. Sau nhiều nỗ lực thương lượng không thành và với việc chính quyền sở tại Ngô Đình Diệm thi hành chủ trương đàn áp chính trị và tôn giáo [ 53 ], năm 1959, Đảng Lao động Nước Ta đã quyết định hành động thực thi tương hỗ những lực lượng ở miền Nam tổ chức triển khai đấu tranh chính trị tích hợp vũ trang để thống nhất quốc gia và sau đó thực thi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn nước [ 54 ]. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gọi đại chiến này là kháng chiến nhằm mục đích bảo vệ những thành quả Cách mạng Tháng Tám, đó là Phục hồi và bảo vệ quyền tự quyết dân tộc bản địa và giải phóng dân tộc bản địa khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc. [ 55 ] Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta là đại diện thay mặt nhân dân Miền Nam để thực thi cuộc đấu tranh này. [ 56 ] Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem cuộc kháng chiến này là sự nghiệp của hai miền Nam – Bắc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và sau đó là của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Nước Ta nhằm mục đích đạt độc lập, và thống nhất quốc gia .Với sự viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, miền Bắc dưới sự trấn áp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tương hỗ người và của cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Nước Ta để cạnh tranh đối đầu với Hoa Kỳ và Nước Ta Cộng hòa suốt 16 năm ( 1959 – 1975 ), miền Bắc luôn là hậu phương lớn của mặt trận miền Nam .Trong thời Chiến tranh Nước Ta, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chịu nhiều tai hại của đại chiến vì những chiến dịch ném bom của quân đội Mỹ với mục tiêu ngăn ngừa sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho mặt trận miền Nam Nước Ta. Theo ước tính, không quân Hoa Kỳ đã ném xuống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khoảng chừng 3 triệu tấn bom những loại .

Thống nhất hai miền Nam Bắc Nước Ta

Với sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Chiến tranh Nước Ta kết thúc, miền Nam Nước Ta được tiếp quản bởi nhà nước Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Nước Ta. Chính quyền tại hai miền Nước Ta tái thống nhất ngày 2 tháng 7 năm 1976 thành nhà nước thống nhất, tự do với tên gọi mới : Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nước Ta trải qua cuộc Tổng tuyển cử năm 1976 .

Hành pháp

Cơ quan hành pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được gọi là nhà nước .

nhà nước Cách mạng Lâm thời

Thành lập

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Mặt trận Việt Minh lôi cuốn nhiều đảng phái nhanh gọn cướp chính quyền sở tại từ tay nhà nước Trần Trọng Kim và lực lượng quân đội Đế quốc Nhật Bản. Tại một số ít khu vực, khi mặt trận Việt Minh cướp chính quyền sở tại thì xảy ra xung đột với những nhóm vũ trang của Đại Việt, Nước Ta Quốc dân Đảng do những bên đều cùng theo đuổi tiềm năng buộc Đế quốc Việt Nam chuyển giao chính quyền sở tại cho mình [ 57 ] .

Tổ chức chính quyền đầu tiên là Chính phủ Cách mạng Lâm thời, thành lập ngày 27 tháng 8 năm 1945 trên cơ sở Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Việt Minh thành lập trong Cách mạng tháng Tám. Chính phủ Cách mạng Lâm thời tuyên bố “Chính phủ lâm thời không phải là Chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn quốc, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính thức.” đồng thời kêu gọi “Vận mệnh ngàn năm của dân tộc đang quyết định trong lúc này. Toàn thể quốc dân hãy khép chặt hàng ngũ, đứng dưới lá quốc kỳ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời, đặng nắm chắc tự do độc lập, cải tạo tổ quốc bấy nhiêu lâu đã bị bọn giặc nước tàn phá. Cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc đang tiếp tục. Bước đường giải phóng dân tộc còn nhiều chông gai hiểm trở. Quốc dân hãy sẵn sàng nghe hiệu lệnh của Chính phủ, hy sinh phấn đấu bảo vệ quyền độc lập hoàn toàn” [58]. Cựu hoàng Bảo Đại và Giám mục Lê Hữu Từ được mời làm Cố vấn Tối cao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hoạt động

Ngay sau khi xây dựng, nhà nước Cách mạng Lâm thời phát hành những sắc lệnh giải tán 1 số ít đảng phái [ 59 ] [ 60 ], với nguyên do những đảng này ” tư thông với ngoại bang “, làm ” phương hại đến nền độc lập Nước Ta và nền kinh tế tài chính Nước Ta ” ( như Nước Ta Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng … ) nhằm mục đích kịp thời trừng trị ” bọn phản cách mạng “, ” bảo vệ ” chính quyền sở tại non trẻ đồng thời ” giáo dục ý thức về niềm tin cẩn trọng ” cho nhân dân [ 61 ]. Cùng với đó là giải tán những nghiệp đoàn [ 62 ] để trấn áp nền kinh tế tài chính [ 63 ], thống nhất những tổ chức triển khai người trẻ tuổi ( vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam ). Đồng thời nhà nước cũng phát hành sắc lệnh xây dựng Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương những cấp .Trong cuộc họp tiên phong của nhà nước Cách mạng Lâm thời ( 3 tháng 9 năm 1945 ), hàng loạt những thành viên trong cơ quan chính phủ đã thống nhất những giải pháp quản trị nhà nước Hồ Chí Minh để xử lý những yếu tố cấp bách của nước mới, gồm có [ 64 ] :

  1. Phát động tăng gia sản xuất, mở các cuộc lạc quyên để chống nạn đói.
  2. Mở phong trào chống nạn mù chữ.
  3. Tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
  4. Mở phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, bài trừ các tệ nạn do chế độ thực dân để lại.
  5. Xóa bỏ các thứ thuế vô lý, trước mắt là thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
  6. Tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.

Nạn đói năm Ất Dậu tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 khiến khoảng 2.000.000 người chết đói[65]. Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức lễ phát động phong trào cứu đói tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Chính phủ còn phái một ủy ban vào Nam bộ tổ chức vận chuyển gạo ra Bắc. Chính phủ cũng kêu gọi các hội buôn và người dân tham gia vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc. Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được trong tháng 9 năm 1945 với số lượng không quá 30.000 tấn do chiến tranh bùng nổ khi Pháp đưa quân đội vào Nam Kỳ. Trong thư gửi đồng bào cả nước đăng trên Báo Cứu Quốc ngày 28-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo“. Chính phủ cũng chi ngân sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới. Cho đến đầu năm 1946, hệ thống đê tại miền Bắc đã sửa xong[66].

Để xử lý tận gốc nạn đói, nhà nước Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lôi kéo nhân dân tăng gia sản xuất. nhà nước còn hoạt động tư nhân cho mượn những vườn trống quanh nhà để tăng gia sản xuất. Mỗi địa phương lập ra một tiểu ban để kêu gọi nhân lực và tổ chức triển khai sản xuất, lương thực làm ra được dùng để cứu tế. Cuối năm 1945 đầu 1946 không còn kịp thời vụ để trồng lúa nữa, nên chính phủ nước nhà phát động dành phần đông đất đai để tranh thủ trồng liên tục hai vụ màu ( khoai lang, đậu, bắp … ) bù cho phần lúa thiếu vắng. Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp 4 lần so với thời kỳ trước năm 1945. Chỉ trong 5 tháng từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 5 năm 1946 đã đạt 614.000 tấn, tương tự 506.000 tấn lúa, đủ đắp được số thiếu vắng của vụ mùa năm 1945 [ 66 ] .

Trong năm 1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Ngày 2 tháng 9 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ“. Giáo sư kinh tế Đặng Phong đánh giá việc giải quyết được nạn đói là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và đi theo Việt Minh[66].

Một thành tựu khác của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ là xóa mù chữ. Năm 1945, có 95% dân số Việt Nam mù chữ. Trước thực trạng đó, để xóa mù chữ, từ ngày 8 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra các sắc lệnh: Sắc lệnh số 17 đặt ra một bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam, Sắc lệnh số 19 lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối, Sắc lệnh số 20 định rằng việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền. Để phục vụ chiến dịch xoá mù chữ, Nha Bình dân học vụ được thành lập ngày 18 tháng 9 năm 1945. Ngày 4 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Chống nạn thất học gửi tới toàn dân: “…Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức, mới có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ… Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi.” Các lớp học Bình dân học vụ được mở khắp nơi ở cả ba miền thu hút sự tham gia của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp nhân dân. Người biết chữ dạy cho người không biết chữ. Đến tháng 9 năm 1946, phong trào Bình dân học vụ đã tổ chức được 75.000 lớp học với trên 95.000 giáo viên, trên 2.500.000 người được phong trào dạy biết đọc, biết viết[67].

Theo Quyết nghị của nhà nước, ngày 4 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt đại diện quản trị nhà nước Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ký phát hành Sắc lệnh số 4 lập ” Quỹ độc lập ” với mục tiêu ” để thu nhận những món tiền và vật phẩm của nhân dân sẵn lòng quyên giúp nhà nước để ủng hộ nền độc lập của Quốc gia “. Tiếp sau đó, cũng trong khuôn khổ Quỹ Độc lập, nhà nước đã đề ra giải pháp tổ chức triển khai ” Tuần lễ Vàng ” từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 9 năm 1945 [ 68 ]. quản trị Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn nước nhân ngày ” Tuần lễ Vàng “, nêu rõ mục tiêu của việc lập quỹ là ” thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của những nhà phong phú để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của tất cả chúng ta lúc này là việc quốc phòng “. nhà nước đã kêu gọi được tổng số 20 triệu đồng và 370 kg vàng [ 69 ]. Ngân quỹ vương quốc đã có hàng trăm triệu đồng. Riêng tại TP. Hà Nội, trong ” Tuần lễ Vàng ” nhân dân đã góp được 2.201 lạng vàng, 920 tạ thóc cùng tiền tài và những hiện vật khác, tổng trị giá lên 7 triệu đồng Đông Dương [ 70 ]. Số tiền này được dùng để mua vũ khí của quân đội Nhật bị quân đội Trung hoa Dân quốc tịch thu và để hối lộ cho những tướng lĩnh Nước Trung Hoa đang đóng quân tại miền Bắc Nước Ta [ 71 ] .Cùng những hình thức tổ chức triển khai ” Quỹ Độc lập “, ” Tuần lễ Vàng “, chính quyền sở tại cách mạng còn tổ chức triển khai nhiều hình thức khuyến khích để nhân dân có điều kiện kèm theo tham gia góp phần cho kinh tế tài chính quốc gia với hình thức tự nguyện như lập ” Quỹ Kháng chiến “, ” Quỹ Bình dân học vụ “, ” Quỹ Giải phóng quân “, ” Ngày Nam Bộ ” … Sự góp phần, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân đã góp thêm phần xử lý khó khăn vất vả về kinh tế tài chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa .

nhà nước Liên hiệp Lâm thời

Thành lập

Nội các Chính phủ Liên hiệp Lâm thời
Tháng 9 năm 1945, 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 quân đoàn do tướng Lư Hán làm tổng chỉ huy, theo sự phân công của phe Đồng Minh chia làm hai đường tiến vào miền Bắc giải giáp quân Nhật đã kéo vào đóng quân ở Thành Phố Hà Nội và hầu hết những thành phố, thị xã từ biên giới Việt-Trung đến vĩ tuyến 16. Quân của Tưởng Giới Thạch ngoài trách nhiệm giải giáp quân Nhật còn nhằm mục đích triển khai ý đồ hủy hoại Đảng Cộng sản Đông Dương, phá vỡ mặt trận Việt Minh, giúp những lực lượng trái chiều đánh đổ chính quyền sở tại do Việt Minh xây dựng, thiết lập chính quyền sở tại thân Tưởng [ 72 ] .Các tổ chức triển khai Việt Quốc ( Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam đứng đầu ), Việt Cách ( đứng đầu là Nguyễn Hải Thần ) cũng nhanh gọn từ Trung Quốc đi cùng quân Tưởng quay trở lại Nước Ta. Thành phần những đảng phái này trong nước không mạnh như Việt Minh [ 57 ] [ 73 ] .

Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, mục đích của Việt Quốc, Việt Cách để mở đường, tạo dựng cơ sở cho Quân đội Trung Hoa Dân Quốc vào Việt Nam[64], gây xung đột vũ trang với Quân Giải phóng và cướp chính quyền các địa phương[72][74]. Dựa vào quân đội Tưởng, Việt Quốc và Việt Cách đã chiếm giữ một số nơi ở Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái, liên tục thực hiện các vụ quấy nhiễu, cướp phá, giết người, rải truyền đơn, ra báo Việt Nam, Thiết Thực, Đồng Tâm nhằm vu cáo nói xấu Việt Minh, chống chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đòi gạt bỏ các bộ trưởng là đảng viên cộng sản ra khỏi chính phủ mới thành lập[72]. Cũng theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, do sống từ lâu ở nước ngoài, lại không có liên hệ gì với phong trào cách mạng trong nước, nên Việt Quốc, Việt Cách không nhận được sự ủng hộ của người dân. Tại nhiều nơi có quân Tưởng và Việt Quốc, Việt Cách đi qua, các cơ quan chính quyền, đoàn thể, lực lượng vũ trang đều dãn ra xung quanh tránh xô xát lớn. Nhân dân thực hiện “vườn không, nhà trống”. Điều này đã khiến cho quân Tưởng gặp nhiều khó khăn trên đường đi, còn Việt Quốc, Việt Cách cũng thất bại trong việc khuếch trương thanh thế cũng như mục đích của mình[75]. Còn theo sử gia Trần Trọng Kim thì Việt Quốc, Việt Cách tuy có thế lực nhờ quân đội Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, nhưng không thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ[76], tuyên truyền nhiều mà không làm được việc gì đáng kể[77]. Thiếu tá tình báo Mỹ thuộc OSS, Archimedes L.A Patti nhận xét những người Quốc gia lưu vong chống cộng quyết liệt, có tham vọng nắm quyền lãnh đạo đất nước nhưng quá kém về tổ chức, thiếu sự liên kết chính trị, thiếu lãnh đạo và không có một chương trình hành động ra hồn mà chỉ hy vọng tạo ra một nước Việt Nam độc lập với sự giúp đỡ của Trung Quốc[78]. Sau khi thảo luận với các lãnh đạo Việt Cách và Việt Nam Quốc dân Đảng, ông nhận thấy những người này tuyệt nhiên không có ý tưởng nào về việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không một ai có khái niệm về công việc sẽ làm mà chỉ chăm chăm mục tiêu “chia sẻ quyền lực với Việt Minh”. Ông ta nhận xét: “Họ (Việt Cách, Việt Nam Quốc dân Đảng) là những kẻ lạc hướng về chính trị, có lẽ vì sống quá lâu ở Trung Quốc” [79].

Tưởng Giới Thạch không có dự tính dính líu vào cuộc đấu tranh giành độc lập của Nước Ta. Ông không muốn làm mất lòng Pháp vì Pháp là một cường quốc trong khối Đồng Minh. Ông chủ trương rút hết quân về nước ngay sau khi giải giáp Nhật. Ngược lại tướng Lư Hán xem lập trường của Tưởng là thiển cận vì đi ngược lại những nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương đã được Trung Quốc Dân Quốc cam kết ủng hộ. Lư Hán chủ trương đóng quân tại miền Bắc Việt Nam lâu dài, đặt Nước Ta dưới sự bảo trợ của Nước Trung Hoa Dân Quốc để Nước Ta hoàn toàn có thể độc lập mà không cần đến sự ủng hộ của Pháp. Trong suốt thời hạn đóng quân tại miền Bắc Nước Ta, Lư Hán dùng mọi năng lực của mình để làm thất bại mọi kế hoạch của Pháp giành lại quyền trấn áp miền Bắc Nước Ta [ 80 ]. Người Pháp được đối xử như những người ngoại bang khác, Pháp không được cử đại diện thay mặt tham gia vào lễ đầu hàng của Nhật với tư cách một nước trong khối Đồng Minh, những chỉ huy Pháp tại TP.HN cũng không được Lư Hán công nhận là đại diện thay mặt của chính phủ nước nhà De Gaulle. Bộ phận OSS của Mỹ tại miền Bắc Nước Ta ( Nhóm Con nai ) cũng phủ nhận giúp những chỉ huy Pháp thiết lập một hành dinh tại Nước Ta [ 81 ]. Trước đó OSS đã được lệnh của Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt không để cho Pháp tái chiếm Đông Dương, không được cung ứng vũ khí hay tiếp tế cho Pháp ngoại trừ để triển khai những tiềm năng chống Nhật đã được Đồng Minh ưng ý [ 82 ] .Nước Ta Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng ủng hộ quan điểm của Lư Hán về việc Trung Quốc đóng quân lâu dài hơn tại Nước Ta để tương hỗ cho nền độc lập của Nước Ta còn Việt Cách lại ủng hộ quan điểm của Tưởng Giới Thạch rút hết quân đội Nước Trung Hoa Dân Quốc về nước sau khi giải giáp Nhật để Nguyễn Hải Thần chỉ huy Nước Ta với sự tương hỗ của Nước Trung Hoa Dân Quốc [ 83 ] .Trong hai ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1945, Việt Minh họp bí hiểm với Việt Cách ( ngày 18 tháng 9 ) và Việt Quốc ( ngày 19 tháng 9 ). Trong hai cuộc họp này, Nguyễn Hải Thần đại diện thay mặt Việt Cách và Nguyễn Tường Tam đại diện thay mặt Việt Quốc đề xuất Hồ Chí Minh chấp thuận đồng ý hợp nhất Việt Minh với Việt Cách và Việt Quốc. Qua đó, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt Minh chỉ huy sẽ nhận được sự ủng hộ về kinh tế tài chính và chính trị của Trung Quốc Dân Quốc. Đối với lời ý kiến đề nghị này, trong nội bộ Việt Minh có nhiều quan điểm khác nhau. Võ Nguyên Giáp không đồng ý chấp thuận vì cho rằng những đề xuất đó không có giá trị và không ngay thật, chẳng khác gì thay thế sửa chữa chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị của Trung Quốc nhưng Hoàng Minh Giám lại nghĩ rằng việc hợp nhất Việt Minh với những đảng phái Quốc gia sẽ làm giảm bớt sự trái chiều và tăng cường thế lực cho Việt Minh, làm người Trung Quốc yên lòng còn Pháp phải quan ngại, quan trọng nhất là nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong con mắt của Đồng Minh, đặc biệt quan trọng là Mỹ, là cơ quan chính phủ thật sự dân chủ. Cuối cùng Việt Minh đã khước từ hợp nhất với Việt Cách và Đại Việt Quốc dân Đảng [ 84 ] .Điều làm Hồ Chí Minh lo lắng là trong một số ít giới, đặc biệt quan trọng là những tầng lớp trung lưu Nước Ta, người ta vẫn xem ông và Việt Minh là cộng sản vì vậy ông phải làm mọi cách để biến hóa điều này [ 85 ]. Tháng 11 năm 1945, ông quyết định hành động cho Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán. Về mặt công khai minh bạch, đảng của ông không còn hiện hữu mà chỉ có một bộ phận hoạt động giải trí dưới danh nghĩa Hội điều tra và nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương [ 86 ] .Ngày 19 tháng 11 năm 1945, tướng Tiêu Văn đứng ra tổ chức triển khai một cuộc hội nghị hòa giải có Nước Ta Quốc dân Đảng, Nước Ta Cách mạng Đồng minh Hội và Việt Minh tham gia. Mặt trận Việt Minh đồng ý chấp thuận nhượng bộ với Việt Quốc, Việt Cách [ 57 ] [ 87 ]. Lãnh đạo Việt Cách Nguyễn Hải Thần được chỉ định vào ghế Phó quản trị nhà nước. Đồng thời hai ghế bộ trưởng liên nghành Bộ Y tế và Bộ Vệ sinh, một ghế thứ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế được giao cho những thành viên của Việt Quốc, Việt Cách [ 88 ] [ 89 ]. Tuy nhiên chức trách những Bộ cũng biến hóa. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành nơi lo về kinh tế tài chính mà không được xem xét list nhân sự, quân số, súng đạn còn những Bộ trưởng khác của những đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách đơn cử gì, không khi nào được tham gia bất kỳ buổi họp nào của nội các [ 90 ] .Ngày 1 tháng 1 năm 1946, nhà nước Liên hiệp Lâm thời được xây dựng thay thế sửa chữa nhà nước Cách mạng Lâm thời với sự tham gia của 1 số ít đảng phái trái chiều ( Việt Cách, Việt Quốc … ) hoạt động giải trí ở Trung Quốc với sự bảo trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng [ 91 ] .

Hoạt động

Các đại biểu Quốc hội khóa 1 chụp ảnh cùng Hồ Chủ tịch.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc, lần đầu tiên đã bầu ra Quốc hội và thông qua Hiến pháp. Nhiều đảng phái không có quyền tham gia Tổng tuyển cử đã tìm cách phá hoại[92]. Các đảng này cho là trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản, chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được[93]. Hai đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử dù trước đó Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) và Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Quốc) mời Việt Quốc và Việt Cách tham gia Tổng tuyển cử và đề nghị hai bên không công kích nhau bằng lời nói hoặc hành động cho đến ngày Quốc hội khai mạc[94]. Có nguồn cho là có những nơi lá phiếu không bí mật[95], cựu Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim cho rằng có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh[96]. Theo Việt Minh, cuộc bầu cử đã diễn ra công bằng[97]. Mặc dù bị nhiều đảng phái tuyên truyền vận động dân chúng tẩy chay cuộc bầu cử và ngăn cản việc tổ chức bầu cử ở một số nơi, nhưng tại các địa phương, ở đâu cũng có người tự ứng cử, các cuộc tiếp xúc tranh cử công khai, tự do diễn ra ở khắp mọi nơi[97].

Sau khi kết quả bầu cử được công bố, sự thật hoàn toàn không như các đảng phái tuyên truyền. Nhiều đại biểu có uy tín của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc đều trúng cử tại Quốc hội khóa I hầu hết chưa là đảng viên[97].

Sau cuộc bầu cử, theo thỏa thuận với Việt Minh, phe đối lập bao gồm một số tổ chức như Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng được Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, không tham gia Tổng tuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội cùng nhiều vị trí trong chính quyền trung ương do chính sách hòa hợp các đảng phái của Chính phủ. Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại trước sức ủng hộ lớn của cử tri với Mặt trận Việt Minh nên không tham gia bầu cử[98].

Tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội, theo đề xuất của Đoàn quản trị ( Ngô Tử Hạ điều khiển và tinh chỉnh, với Nguyễn Đình Thi làm thư ký ), những ghế Quốc hội phân loại tả hữu, theo đó Việt Quốc, Việt Cách ( cánh hữu ) ngồi bên tay phải, và những đại biểu Việt Minh, Marxist, Xã hội, Dân chủ ngồi bên tay trái, nhưng theo quan điểm của quản trị Hồ Chí Minh thì không nên phân loại như vậy, biểu lộ một sự đoàn kết trong Quốc hội .

nhà nước Liên hiệp Kháng chiến

Thành lập

Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, nhà nước Liên hiệp Kháng chiến được xây dựng để thay thế sửa chữa nhà nước Liên hiệp Lâm thời. Ở những địa phương, những cấp chính quyền sở tại liên hiệp được xây dựng trong năm 1946 .

Hoạt động

Trong thời gian hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục…[99] Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: “Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại… Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn”. Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: “Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản” [100]

Về đối ngoại đã triển khai đàm phán với nhà nước Pháp, ký với đại diện thay mặt chính phủ nước nhà Cộng hòa Pháp J. Sainteny bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt ngày 6 tháng 3 năm 1946 được cho phép 15.000 quân Pháp ra Bắc sửa chữa thay thế cho 20 vạn quân Tưởng rút về nước. Sau khi bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được ký ngày 6 tháng 3 năm 1946, những đảng phái không cộng sản và thân quốc tế như Việt Quốc và Việt Cách đã lên tiếng phản đối nhà nước ký hiệp định này với Pháp .Từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 11 tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, cơ quan chính phủ tổ chức triển khai một hội nghị dự bị, gặp gỡ giữa 2 phái đoàn Việt và Pháp chuẩn bị sẵn sàng cho Hội nghị Fontainebleau chính thức vào tháng 7 năm 1946 .Ngày 31 tháng 5 năm 1946, quản trị Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp theo lời mời của cơ quan chính phủ nước này. Cùng ngày, phái đoàn cơ quan chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, Hồ Chí Minh chuyển giao quyền chỉ huy quốc gia cho Quyền quản trị Nước là cụ Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn ” Dĩ không bao giờ thay đổi, ứng vạn biến “. Trước khi lên đường sang Pháp, Hồ Chí Minh Dự kiến thời hạn ở Pháp ” … có khi một tháng, có khi hơn ” [ 101 ] nhưng sau cuối quản trị Hồ Chí Minh ở Pháp 4 tháng trong lúc phái đoàn do Phạm Văn Đồng đứng vị trí số 1 tham gia Hội nghị Fontainebleau ( diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946 ). Hội nghị Fontainebleau không đem lại hiệu quả đơn cử nào. Sau khi phái đoàn của Nước Ta về nước, tại Pháp, ngày 14 tháng 9 năm 1946, quản trị Hồ Chí Minh ký với đại diện thay mặt Pháp bản Tạm ước Việt – Pháp .Ngày 15 tháng 6 năm 1946, người lính sau cuối của quân đội Nước Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Nước Ta [ 102 ]. Các thành viên Nước Ta Quốc dân Đảng và Nước Ta Cách Mệnh Đồng minh Hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính là quân đội Tưởng Giới Thạch và do sự không tương đồng về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt ngày 6 tháng 3 cũng như không muốn sáp nhập quân đội vào biên chế Vệ quốc đoàn dưới sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng do Việt Minh trấn áp do lo âu bị khống chế rồi bị giải tán dần đã lần lượt rút khỏi chính phủ nước nhà Liên hiệp. [ 103 ] Lãnh tụ đảng Việt Cách là Nguyễn Hải Thần và những thành viên Việt Quốc – Việt Cách khác trong cơ quan chính phủ như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh và cánh thân Tưởng do Vũ Hồng Khanh chỉ huy lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần nhiều vẫn ở lại Nước Ta chờ thời cơ [ 104 ]. Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đứng vị trí số 1 phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị trù bị tại Đà Lạt, nhưng do sự không tương đồng đã không tham gia hầu hết những phiên họp [ 105 ], sau đó cũng không tham gia Hội nghị Fontainebleau, ở đầu cuối rời bỏ cơ quan chính phủ [ 103 ] ( tài liệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ rồi đào nhiệm sang quốc tế [ 106 ] ). Việc những thành viên chủ chốt của Việt Quốc, Việt Cách như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh rời bỏ cơ quan chính phủ, lưu vong sang Trung Quốc đã lưu lại chấm hết cho thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và những đảng phái không cộng sản tại miền Bắc, trong công cuộc ” kháng chiến kiến quốc ” mà nhà nước Liên hiệp Kháng chiến là hình tượng .

Sự có mặt của quân đội Tưởng Giới Thạch cho tới lúc đó đã đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hai đảng này không có một chương trình gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những người lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội thì còn xa mới có được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyễn Giáp và những người có trách nhiệm khác của Việt Minh. Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15 tháng 6 năm 1946, hiểu theo cách này hay cách khác, Võ Nguyên Giáp quyết định Việt Minh phải hoàn toàn một mình điều khiển bộ máy chính quyền. Võ Nguyên Giáp hối hả hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được Trung Hoa Quốc dân Đảng ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng (theo Cecil B. Currey tổ chức này mượn danh cách mạng của Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1930 do Nguyễn Thái Học sáng lập[102] còn theo David G. Marr thì Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra sức tuyên truyền Việt Nam Quốc dân Đảng phản bội lại sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái Học năm 1930 nhưng đến cuối năm 1945 nhiều người dân vẫn không tin vào điều đó ), nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những người Trotskyist, những người quốc gia chống Pháp, nhóm Công giáo mang tên “chiến sĩ Công giáo”. Võ Nguyễn Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái này. Ngày 19 tháng 6 năm 1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích “bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3“. Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các binh lính, sĩ quan Nhật Bản tình nguyện ở lại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp (ở Hòn Gai quân Pháp cung cấp cho Việt Minh những khẩu pháo để diệt một số vị trí do quân Đại Việt chiếm giữ) trong chiến dịch này[102].

Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch trấn áp những đảng phái trái chiều là vụ án phố Ôn Như Hầu. Sau khi từ Trung Quốc về Nước Ta, Nước Ta Quốc dân Đảng ngoài việc tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với những đảng phái Việt Cách, Đại Việt … chiếm chính quyền sở tại [ 108 ], Nước Ta Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng nhờ có vũ khí do Nước Trung Hoa Dân Quốc chuyển giao còn tổ chức triển khai những đội vũ trang mang tên ” Thần lôi đoàn “, ” Thiết huyết đoàn “, ” Hùm xám ” … Các đội vũ trang này đã tổ chức triển khai nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức triển khai ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên ( Ba Viên bị Quốc dân Đảng hoài nghi là gián điệp của Pháp, sau khi gặp Hồ Chí Minh, Ba Viên quay về Hà Giang, bắt giữ và hành quyết một số ít đảng viên Nước Ta Quốc dân Đảng ) rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không bảo vệ được bảo mật an ninh trật tự ở Hà nội và một số ít đô thị ở Bắc Bộ [ 109 ]. Không những thế đầu tháng 6 năm 1946, Nước Ta Quốc dân Đảng tổ chức triển khai cho Nghiêm Xuân Chi ( đảng viên Việt Quốc ) ám sát một số ít chỉ huy của Việt Minh như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh và ông Bồ Xuân Luật, một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh [ 110 ]. Trước những hoạt động giải trí gây mất trật tự bảo mật an ninh tại TP.HN và một số ít thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai minh bạch là Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu [ 109 ]. Trường Chinh ( Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động giải trí bí hiểm, chức vụ công khai minh bạch là Hội trưởng Hội điều tra và nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương ) được Nha Công an Trung ương báo cáo giải trình phát hiện được thủ đoạn của thực dân Pháp câu kết với Nước Ta Quốc dân Đảng đang sẵn sàng chuẩn bị thay máu chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã chỉ huy phải tập trung chuyên sâu trấn áp Nước Ta Quốc dân Đảng, nhưng phải có đủ chứng cứ .

Sáng sớm ngày 12 tháng 7 năm 1946, một tiểu đội công an do Lê Hữu Qua chỉ huy[111] bao vây khám xét trụ sở của Đảng Đại Việt tại số 132 Duvigneau, do nghi ngờ Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đúng vào ngày Quốc khánh Pháp (14 tháng 7 năm 1946) khiến lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp phản ứng[112]. Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên nhưng vẫn tiến hành để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, lựu đạn[111]. Công an cũng được cho là đã phát hiện một bản kế hoạch có chữ ký của Trương Tử Anh, theo đó Đại Việt sẽ quăng lựu đạn vào lính Pháp gốc Phi trong ngày diễu binh của quân đội Pháp, tiếp đó quân đội Đại Việt hoặc quân đội Pháp sẽ bắt giữ những lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cuối cùng Trương Tử Anh sẽ công bố thành lập chính phủ mới. Lê Giản, Giám đốc Nha Công an Bắc bộ, đưa tài liệu này cho Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng. Ông này đọc rồi nói “Tiêu diệt chúng! Quét sạch toàn bộ! Lũ phản bội! Đồ chó má!“. Tuy nhiên, tài liệu này là một bản dự thảo do Trương Tử Anh viết tay chỉ để sử dụng trong Đại Việt Quốc dân Đảng. Lê Giản không cung cấp được bằng chứng về sự thông đồng của Pháp với Đại Việt Quốc dân Đảng trong kế hoạch đảo chính ngày 14 tháng 7 năm 1946 ngoài việc Sainteny tiếp tục muốn tổ chức diễu binh vào ngày đó. Lê Giản tìm Võ Nguyên Giáp và được Giáp chỉ thị tấn công tất cả các văn phòng của Việt Quốc ở Hà Nội và các tỉnh.

Sau đó, lúc 7 h sáng ngày 12 tháng 7 năm 1946, Nước Ta Công an vụ thực thi phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là những ông Lê Giản ( Giám đốc Nha Công an Bắc Bộ ), Nguyễn Tuấn Thức ( Giám đốc Công an TP. Hà Nội ) và Nguyễn Tạo ( Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương ) [ 112 ]. Lực lượng công an xung phong đã thực thi khám xét những trụ sở Nước Ta Quốc dân Đảng ( 7 căn nhà ) tại Thành Phố Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Nước Ta Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó, … Hơn 100 người bị bắt và 1 số ít người biến mất không dấu vết. Trong số những thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt, có một đại biểu Quốc hội Nước Ta khóa I là Phan Kích Nam. Theo tìm hiểu của Nha công an, Nước Ta Quốc dân Đảng đang sẵn sàng chuẩn bị những hành vi khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định những thành viên của Nước Ta Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu hành qua nhân ngày Quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và nhà nước, gây sự phá hoại độc lập rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền sở tại và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp. [ 104 ]

Ngày 16 tháng 7, Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng đã có tuyên bố trấn an dư luận: “Những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng chân chính, được bảo đảm sự tự do hoạt động trong vòng pháp luật… Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát thì phải đem ra pháp luật nghiêm trị. Đây không phải là vấn đề đảng phái. Việc khám xét vừa rồi là việc phải làm để bảo vệ trị an…”.[114]

Theo lao lý của pháp lý thì Phó quản trị nước và Bộ trưởng do Quốc hội bầu, và chỉ phế truất bởi Quốc hội theo thủ tục lao lý của pháp lý [ 115 ] Trong phiên điều trần trước Quốc hội tại Kỳ họp thứ hai tương quan Tạm ước và 1 số ít thành viên rời nhà nước, Hồ Chí Minh có nói :

Tạm ước này có ảnh hưởng tới các hiệp ước ký sau không? Trong xã hội loài người, có cái gì mà không ảnh hướng tới cái khác. Tuy vậy, những sự điều đình sau đây không thể vì bản tạm ước này mà bị ràng bó. Bản Tạm ước này tùy theo sự thi hành thế nào, sẽ tạo điều kiện đẩy cho những cuộc điều đình sau mau chóng đạt kết quả.Về ông Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam, ông Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh, các ông ấy không có mặt ở đây. Lúc Nhà nước đương gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào trao người ấy làm công việc lớn mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải hỏi lương tâm thế nào? Những người đã bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh vác việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ năng lực gánh vác, nay chúng ta không có họ ở đây chúng ta cũng cứ gánh vác được như thường[116].

Dù vậy, 1 số ít thành viên Việt Quốc, Việt Cách như Chu Bá Phượng, Bồ Xuân Luật vẫn liên tục tham gia nhà nước, kể cả khi lên Việt Bắc. Trương Đình Tri vẫn liên tục tham gia cơ quan chính phủ sau Vụ án phố Ôn Như Hầu. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội, vẫn có 37 đại biểu Việt Quốc, Việt Cách tham gia ( tổng số 291 thành viên tham gia trong tổng số 444 thành viên đã lan rộng ra so với đầu năm ). Cung Đình Quỳ liên tục tham gia Ban Thường trực Quốc hội .

nhà nước Liên hiệp Quốc dân

Thành lập

Ngày 3 tháng 11 năm 1946 nhà nước Liên hiệp Quốc dân nhiều thành phần được xây dựng thay cho nhà nước Liên hiệp Kháng chiến nhằm mục đích cung ứng tình hình mới .

Hoạt động

Trong thời hạn kháng chiến, cỗ máy hành chính những cấp có nhiều biến hóa. Tổ chức đơn vị chức năng hành chính Khu và Liên khu. Thành lập những Ủy ban Kháng chiến những cấp. Cấp Trung ương, xây dựng Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia ( 1947 ), sau đổi là Bộ Tổng tư lệnh ( 1948 ) rồi Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh. Các cơ quan tư pháp cơ bản tổ chức triển khai theo cấp xét xử .

nhà nước từ 1955 đến 1959

Ban đầu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính thể của nước Nước Ta thống nhất, nhưng trong thực tiễn sau năm 1954 thì chỉ quản trị từ Vĩnh Linh trở ra. Sau năm 1954, nhà nước khởi đầu đặt ra những tiềm năng tái tạo xã hội chủ nghĩa .

nhà nước từ 1960 đến 1964

nhà nước từ 1964 đến 1971

nhà nước từ 1971 đến 1975

nhà nước từ 1975 đến 1976

Lập pháp

Quốc hội Khóa I

Quốc hội Khóa I ( Quốc hội lập hiến ), với tên gọi lúc đó là Nghị viện Nhân dân, được bầu vào ngày 6 tháng 1 năm 1946, với tỷ suất cử tri đi bỏ phiếu là 89 % và có 333 người trúng cử .Ngày 20 tháng 9 năm 1945, Ủy ban Dự thảo Hiến pháp được xây dựng theo Sắc lệnh số 34 – SL gồm có 7 thành viên : Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy ( vua Bảo Đại ), Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu ( Trường Chinh ) .Ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I đã trải qua Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dự kiến trưng cầu dân ý toàn nước trải qua Hiến pháp, bầu cử Nghị viện Nhân dân theo lao lý của Hiến pháp mới thay cho Quốc hội lập hiến, nhưng cuộc chiến tranh nên không thực thi được. Khi đó Quốc hội chia theo nhóm : Mác xít, Xã hội chủ nghĩa, Dân chủ, Việt Minh, Đồng minh Hội và Nước Ta Quốc dân Đảng [ 117 ], không kể những đại biểu trung lập .Tiếp đó, Dự án luật Lao động được trải qua và phát hành ngày 8 tháng 11 năm 1946. Đây là dự luật tiên phong được trải qua .Ngày 31 tháng 9 năm 1959, trong kỳ họp tại TP.HN, Quốc hội khóa I trải qua Hiến pháp mới. Do tình hình cuộc chiến tranh, Hiến pháp 1946 chưa được chính thức công bố và theo một số ít người chưa từng có hiệu lực hiện hành về phương diện pháp lý [ 118 ]. Quốc hội Nước Ta khóa I cũng đã trải qua Hiến pháp năm 1959 và xem là thừa kế Hiến pháp năm 1946, là Hiến pháp của một nước Nước Ta thống nhất trên cơ sở khẳng định tính hợp hiến, hợp pháp của Quốc hội và nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa .

Quốc hội Khóa II

Quốc hội khóa II được bầu năm 1960, những đại biểu miền Nam đủ tư cách được bầu trong khóa I được lưu nhiệm .

Quốc hội Khóa III

Quốc hội khóa III được bầu năm 1964, những đại biểu miền Nam đủ tư cách được bầu trong khóa I được lưu nhiệm. Kỳ họp thứ 7 năm 1971 ra nghị quyết không bổ nhiệm những đại biểu miền Nam, sau khi Đại hội quốc dân miền Nam bầu ra nhà nước Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta và Hội đồng Cố vấn bên cạnh nhà nước [ 119 ] [ 120 ] .

Quốc hội Khóa IV

Quốc hội khóa IV được bầu năm 1971 .

Quốc hội Khóa V

Quốc hội khóa V được bầu năm 1975 .

Tư pháp

Giai đoạn 1945 – 1954

Giải tán một số ít đảng phái

Ngay sau khi thành lập để ổn định tình hình, giữ vững nền độc lập non trẻ, ngoài việc giải tán một số đảng phái[59][60] với lý do “tư thông với ngoại quốc”, “phương hại đến nền độc lập Việt Nam” (như Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Quốc dân Đảng,…) nhằm kịp thời trừng trị “bọn phản cách mạng”, bảo vệ chính quyền non trẻ đồng thời giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác cho nhân dân[61]; thì Chính phủ Cách mạng Lâm thời còn ra các sắc lệnh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người bị quy là nguy hiểm cho nền Dân chủ Cộng hòa Việt Nam[121].

Thành lập Bộ Tư pháp

Bộ Tư pháp Nước Ta được xây dựng ngày 28 tháng 8 năm 1945 cùng với nhà nước Cách mạng Lâm thời do luật sư Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng, sau tháng 3 năm 1946 thì chuyển giao cho luật sư Vũ Đình Hòe. Đến năm 1960, Bộ Tư pháp giải thể .

Thành lập Tòa án Quân sự

Ngày 13 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành sắc lệnh thành lập các Tòa án Quân sự[122][123][124][125] để xử tất cả các người nào vi phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo quy định về thành lập Tòa án Quân sự theo Sắc lệnh 21/SL ngày 14 tháng 2 năm 1946 và Sắc lệnh 170/SL của Chủ tịch Chính phủ ngày 14 tháng 4 năm 1948: “Tòa án quân sự xử tất cả các người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8 dương lịch năm 1945, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trừ những việc nào mà phạm nhân là binh sĩ, dù là tòng phạm hay chính phạm, thì thuộc về nhà binh tự xử lấy. Tòa án quân sự có thể tuyên án: tha bổng, tịch thu một phần hay tất cả tài sản, phạt tù từ 1 đến 10 năm, phạt khổ sai từ 5 đến 10 năm, xử tử. Những quyết nghị của tòa án quân sự sẽ đem thi hành ngay, không có quyền chống án, trừ trường hợp xử tử, tội phạm có quyền đề đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm. Bản án hoãn thi hành để chờ quyết nghị của Chủ tịch Chính phủ”.

Thành lập Tòa án Nhân dân Đặc biệt

Sắc lệnh số 150 / SL ngày 12 tháng 4 năm 1953 xây dựng Tòa án Nhân dân đặc biệt quan trọng ở những nơi phát động quần chúng. Mục đích để bảo vệ việc thi hành chủ trương ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố chính quyền sở tại nhân dân, thôi thúc kháng chiến đến thắng lợi. Nhiệm vụ Tòa án : Trừng trị những kẻ phản cách mạng, những cường hào gian ác, những kẻ chống lại hoặc phá hoại chủ trương ruộng đất ; Xét xử những tranh chấp về gia tài, ruộng đất tương quan đến những vụ án trên ; Xét xử những tranh cãi về phân định thành phần giai cấp .Thẩm quyền Tòa án Nhân dân Đặc biệt huyện hoặc liên huyện đặt dưới sự chỉ huy của Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh và đi xử lưu động ở những xã có phát động quần chúng. Việc xây dựng Tòa án Nhân dân Đặc biệt ở huyện hay liên huyện do Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh quyết định hành động và Ủy ban Kháng chiến Hành chính liên khu duyệt y. Tòa án Nhân dân Đặc biệt có Chánh án, 6 đến 10 thẩm phán, đa phần là trung nông và bần cố nông, bần cố nông nhiều hơn trung nông. Chánh án và 50% số thẩm phán do Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh lựa chọn và Ủy ban Kháng chiến Hành chính liên khu duyệt y. Một nửa số thẩm phán do Nông hội hoặc Hội nghị đại biểu nông dân ở huyện hay liên huyện cử ra. Khi đến xã nào xử thì lấy thêm đại biểu nông dân ở xã đó, nhưng số đại biểu lấy vào không được quá 1/3 tổng số thẩm phán. Sắc lệnh số 233 / SL ngày 14 tháng 6 năm 1955 sửa lại pháp luật trong Sắc lệnh 150 / SL : Khi phân tòa đến xã nào xử thì lấy thêm 5 đại biểu nông dân của xã đó. Số đại biểu này do Hội nghị đại biểu nông dân xã bầu ra, và phải là bần cố trung nông ; số bần cố nông phải nhiều hơn trung nông. Các đại biểu này có quyền hạn và trách nhiệm của những thẩm phán .Tòa án này có quyền tuyên : tha bổng, cảnh cáo, bồi thường, tịch thu gia tài, tước quyền công dân, quản chế địa phương, phạt tù có thời hạn, phạt tù chung thân, xử tử hình. Đối với việc duyệt án, án tù dưới 5 năm do Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh duyệt và do quản trị Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh ký vào bản án. Án từ 5 năm tù trở lên chung thân và án tử hình thì do Ủy ban Kháng chiến Hành chính liên khu duyệt và do quản trị Ủy ban Kháng chiến Hành chính liên khu ký vào bản án. Trong 10 ngày sau khi tuyên án, người bị án có quyền chống án .

Giai đoạn 1954 – 1976

Xây dựng mạng lưới hệ thống pháp lý

Sau kháng chiến chống Pháp, Quốc hội khóa I đến khóa V đã trải qua nhiều bộ luật góp phần vào mạng lưới hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nền Tư pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra, quản trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng phát hành những sắc lệnh lao lý những yếu tố mà Quốc hội chưa phát hành luật .Ngày 14 tháng 12 năm 1956, quản trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 282 / SL để lao lý về chính sách báo chí truyền thông. Sắc lệnh này pháp luật tổng thể những báo chí truyền thông đều được hưởng quyền tự do ngôn luận, không phải kiểm duyệt trước khi in ( Điều 4 ). Muốn xuất bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm rất đầy đủ thủ tục khai báo. Sau khi được cơ quan đảm nhiệm về báo chí truyền thông của nhà nước cấp giấy phép, tờ báo mới được hoạt động giải trí ( Điều 8 ) [ 126 ] .Ngày 20 tháng 5 năm 1957, quản trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 102 / SL-L004 phát hành Luật pháp luật quyền Lập hội. Luật này lao lý lập hội phải xin phép và thể lệ lập hội sẽ do nhà nước lao lý ( điều 3 ). Đồng thời, những hội đã xây dựng trước ngày phát hành Luật lao lý Quyền Lập hội và đã hoạt động giải trí trong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn liên tục hoạt động giải trí, đều phải xin phép lại ( điều 4 ) [ 127 ] .

Thành lập Viện Công tố Trung ương

Năm 1958, Viện Công tố Trung ương ( sau là Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao ) được xây dựng với Viện trưởng tiên phong là ông Bùi Lâm .

Thành lập Tòa án Nhân dân Tối cao

Tháng 5 năm 1959, Tòa án Nhân dân Tối cao được xây dựng với Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao là luật sư Phạm Văn Bạch .

Phân cấp hành chính

Sau Cách mạng, đơn vị chức năng hành chính những cấp gồm : kỳ, tỉnh, huyện, xã. Thành phố TP. Hà Nội thường trực TW. Thành phố TP. Hải Phòng, Hồ Chí Minh – Chợ Lớn trực thuộc kỳ, thành phố Tỉnh Nam Định, Vinh, Bến Thủy, Huế và TP. Đà Nẵng đều tạm coi là Thị xã .Thời kỳ kháng chiến, tổ chức triển khai thêm những đơn vị chức năng hành chính cấp Khu và Liên khu. Thủ đô kháng chiến đặt ở Việt Bắc .Theo Hiến pháp 1959, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân cấp hành chính như sau :

Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phân định như sau:

Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn.
Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định.
— Điều 78, Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959.

Trong thành phố thường trực TW, thời kỳ 1954 – 1958, có những cấp hành chính Q. ( ở cả nội thành của thành phố và ngoài thành phố ), dưới Q. có thành phố ( ở nội thành của thành phố ) và xã ( ở ngoài thành phố, ngoài những có phố là cấp không thông dụng, như phố Gia Lâm ở TP. Hà Nội ). Năm 1958, nội thành của thành phố bỏ Q., thay bằng thành phố ( gọi tắt là khu ), dưới thành phố là khối dân phố, ngoài thành phố có Q. ( từ năm 1961 đổi là huyện ) và xã. Năm 1974, đổi tên gọi khối dân phố thành cấp tiểu khu .Từ năm 1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập Khu tự trị Thái Mèo ( sau đổi là Khu tự trị Tây Bắc ) gồm ba tỉnh Lai Châu, Sơn La, Nghĩa Lộ, và năm 1956 thiết lập Khu tự trị Việt Bắc gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang. Khu tự trị là đơn vị chức năng hành chính đệm giữa Trung ương và cấp tỉnh. Năm 1975 cấp này bị bãi bỏ .

Các tổ chức triển khai chính trị

Giai đoạn 1945 – 1950, Nước Ta có nhiều đảng phái, tổ chức triển khai chính trị thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, có ý thức hệ khác nhau [ 128 ]. Sau khi Quốc gia Nước Ta xây dựng thì Đảng Lao động Nước Ta cũng được xây dựng, hoạt động giải trí công khai minh bạch. Đến thời gian đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ còn 3 đảng : Đảng Lao động, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội trong Mặt trận Liên Việt. Ba đảng này hoạt động giải trí công khai minh bạch trong vùng do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trấn áp và ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả những đảng phái, tổ chức triển khai khác đều hoạt động giải trí công khai minh bạch trong vùng do Pháp và Quốc gia Nước Ta trấn áp và ủng hộ Quốc gia Nước Ta chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Đảng Lao động Nước Ta chỉ huy .

Các đảng, tổ chức triển khai chống Pháp

Các đảng, tổ chức triển khai liên minh với Pháp

Kinh tế

Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nền kinh tế tài chính chỉ theo khuôn mẫu của chính sách xã hội chủ nghĩa được vận dụng ở phía bắc vĩ tuyến 17, trong khu vực thuộc quyền trấn áp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1955 – 1975. Nhưng đến năm 1986, sau khi quốc gia được thống nhất, chuyển sang kinh tế thị trường xu thế xã hội chủ nghĩa nó cũng được vận dụng ở cả phía nam vĩ tuyến 17, vận dụng trên hàng loạt chủ quyền lãnh thổ Nước Ta .Chủ trương của Đảng Lao động Nước Ta là triển khai cách mạng với hai tiềm năng ” đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa ” và ” dùng hậu phương miền Bắc đấu tranh giải phóng miền Nam ” .

Nông nghiệp

Giữa năm 1955 và năm 1956, một cuộc cải cách ruộng đất được triển khai với mục tiêu lấy ruộng đất của địa chủ, cường hào chia cho nông dân. Cuộc cải cách đã phạm phải nhiều sai lầm đáng tiếc như đấu tố nhầm, tràn ngập, xử tội không trải qua tòa án nhân dân hoặc chỉ qua ” TANDTC nhân dân “. Các nhà chỉ huy chính quyền sở tại, trong đó có quản trị Hồ Chí Minh, đã chính thức phải xin lỗi trước dân chúng về những sai lầm đáng tiếc này đồng thời không bổ nhiệm và xử phạt nhiều cán bộ .

Trong 3.563 xã thuộc 22 tỉnh và những vùng ngoại thành ở miền Bắc đã thực hiện cải cách ruộng đất, các đội cải cách ruộng đất đã chỉ ra 47.890 địa chủ, chiếm 1,87% tổng số hộ và 2,25% tổng số nhân khẩu ở nông thôn. Trong số địa chủ đó, có 6.220 hộ là cường hào gian ác, chiếm 13% tổng số hộ địa chủ. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất đã nêu rõ: “Những tên địa chủ có nhiều tội ác với nông dân và là phản động đầu sỏ cùng một số tổ chức của chúng đã bị quần chúng tố cáo và bị trừng trị theo pháp luật“. Số địa chủ bị tuyên án tử hình trong chương trình Cải cách ruộng đất không được thống kê chính xác và gây tranh cãi. Các nhà nghiên cứu phương Tây đưa ra các số liệu rất khác nhau và không thống nhất, theo Gareth Porter: từ 800 đến 2.500 người bị tử hình[131]; theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000; theo giáo sư sử học James P. Harrison: vào khoảng 1.500 người bị tử hình cộng với 1.500 bị giam giữ[132]. Do tiến hành vội vã, nhiều địa chủ bị kết án oan sai, nên từ năm 1956, các chiến dịch sửa sai được tiến hành, các địa chủ bị kết án oan được trả tự do, minh oan, trả lại danh dự và được tạo điều kiện sinh sống[133]. Qua cải cách ruộng đất ở miền Bắc, trên 810.000 hecta ruộng đất của đế quốc và địa chủ, ruộng đất tôn giáo, ruộng đất công và nửa công nửa tư đã bị tịch thu, trưng thu, trưng mua để chia cho 2.220.000 hộ nông dân lao động và dân nghèo ở nông thôn, bao gồm trên 9.000.000 nhân khẩu. Như vậy là 72,8% số hộ ở nông thôn miền Bắc đã được chia ruộng đất. Tính đến tháng 4 năm 1953, số ruộng đất trực tiếp tịch thu của địa chủ chia cho nông dân bằng 67,67% tổng số ruộng đất mà địa chủ chiếm hữu nǎm 1945[134].

Trong một thời gian ngắn (đến 1955), các công trình thủy lợi bị Pháp phá hủy đều dần được khôi phục, diện tích tưới lên lại 202.374 ha. Năm 1958, sản xuất nông nghiệp nói chung và thủy lợi nói riêng đã vượt mức trước chiến tranh. Nghị quyết 63 của Bộ Chính trị đưa ra mục tiêu “thắng được hạn hán, úng, bão, xâm nhập mặn và lụt lớn”. Công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải được chọn làm đột phá với nhiệm vụ tưới tiêu cho 156.000 ha. Ngày 1/10/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khởi công công trình. Trong thời gian thi công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống động viên và kiểm tra 4 lần: “Bây giờ chịu khó phấn đấu trong mấy tháng. Sau này sẽ hưởng hạnh phúc lâu dài hàng trăm năm”[135].

Trong tiến trình 1955 – 1959, sản lượng lương thực quy thóc từ 3,76 triệu tấn năm 1955 tăng lên 5,19 triệu tấn năm 1959. Đầu năm 1965 đã thiết kế xây dựng được 3.139 điểm cơ khí nhỏ, 7 trạm và 32 đội máy kéo, 33 khu công trình thủy lợi lớn, 1.500 khu công trình vừa và nhỏ được Phục hồi và thiết kế xây dựng, bảo vệ tưới tiêu dữ thế chủ động cho hơn 500.000 ha diện tích quy hoạnh trồng trọt. Nông nghiệp miền Bắc từ một nền nông nghiệp lỗi thời, độc canh, hiệu suất thấp từ từ trở thành một nền nông nghiệp được cơ khí hóa. Năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn / ha / năm thì đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2.628 hợp tác xã đạt đến mức sản lượng trên. Tỉnh Tỉnh Thái Bình, huyện Thanh Trì ( TP.HN ), huyện Đan Phượng ( Hà Tây ) trở thành ” vùng quê 5 tấn ” ( đạt hiệu suất 5 tấn lúa / 1 hécta ) tiên phong trong lịch sử dân tộc [ 136 ] .

Cải tạo kinh tế tài chính

Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố: Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch. Tháng 11 năm 1958, Đảng Lao động Việt Nam quyết định đề ra kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa trong 3 năm (1958–1960) và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (bao gồm hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo tư bản tư doanh)[137][138], kế hoạch phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 12 năm 1958[139]. Đến cuối năm 1960, ở miền Bắc có 84,8% số hộ nông dân đã gia nhập hợp tác xã, chiếm 76% tổng diện tích canh tác, 520 hợp tác xã ngư nghiệp chiếm 77,2% tổng số hộ đánh cá, có 269 hợp tác xã nghề muối chiếm 85% tổng số hộ làm muối. Ở thành thị, 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác, 1.553 doanh nhân thành người lao động. Có 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp, trong đó hơn 70.000 thợ thủ công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực thương nghiệp, đến 60% tổng số người buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, kinh doanh ngành ăn uống thuộc diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm đại lý cho thương nghiệp quốc doanh và trên 10.000 người đã chuyển sang sản xuất[140].

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ( 1961 – 1965 )

Bước vào thực hiện Kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất, miền Bắc chuyển sang giai đoạn lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm là ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự và an ninh xã hội.

Ngành công nghiệp được ưu tiên góp vốn đầu tư thiết kế xây dựng. Với sự trợ giúp của Liên Xô, Trung Quốc và những nước xã hội chủ nghĩa, từ năm 1961 đến năm 1964, vốn góp vốn đầu tư kiến thiết xây dựng cơ bản dành cho công nghiệp là 48 %, trong đó công nghiệp nặng chiếm gần 80 %. Giá trị sản lượng ngành công nghiệp nặng năm 1965 tăng ba lần so với năm 1960 .Trong những năm 1961 – 1965, 100 cơ sở sản xuất mới được thiết kế xây dựng hoặc lan rộng ra như những nhà máy sản xuất : cơ khí TP. Hà Nội, cơ khí Trần Hưng Đạo, xe đạp điện Thống Nhất, đóng tàu Bạch Đằng, điện Uông Bí, khu gang thép Thái Nguyên, … Các khu công nghiệp Việt Trì, Thượng Đình ( TP.HN ), những xí nghiệp sản xuất đường Vạn Điểm, Sông Lam, sứ Thành Phố Hải Dương, pin Văn Điển, dệt 8/3, dệt kim Đồng Xuân, … đã sản xuất nhiều loại sản phẩm ship hàng dân số và quốc phòng. Công nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng 93 % trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc, giữ vai trò chủ yếu trong nền kinh tế tài chính quốc dân. Công nghiệp nhẹ cùng với tiểu thủ công nghiệp đã xử lý được 80 % hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân .Trong nông nghiệp, sau khi đưa đại bộ phận nông dân vào những hợp tác xã, từ năm 1961, những địa phương thực thi chủ trương kiến thiết xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao. Nông dân vận dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất. Hệ thống thủy nông tăng trưởng, nhiều khu công trình mới được kiến thiết xây dựng, tiêu biểu vượt trội như khu công trình Bắc – Hưng – Hải. Nhiều hợp tác xã đạt và vượt hiệu suất 5 tấn thóc / ha cây cối .Thương nghiệp quốc doanh được Nhà nước ưu tiên tăng trưởng nên đã sở hữu được thị trường, góp thêm phần vào tăng trưởng kinh tế tài chính, củng cố quan hệ sản xuất mới, không thay đổi và cải tổ đời sống nhân dân .Hệ thống giao thông vận tải đường đi bộ, đường sắt, đường liên tỉnh, liên huyện, đường sông, đường hàng không được củng cố. Việc đi lại trong nước và giao thông vận tải quốc tế thuận tiện hơn trước .Sự tăng trưởng của nền kinh tế tài chính miền Bắc đã tạo điều kiện kèm theo để miền Bắc tăng cường chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Trong 5 năm ( 1961 – 1965 ), một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, thuốc men được chuyển vào mặt trận. Nhiều cán bộ, chiến sỹ trong nghành nghề dịch vụ quân sự chiến lược, chính trị, văn hóa truyền thống, giáo dục, y tế được đào tạo và giảng dạy và đưa vào Nam tham gia chiến đấu, ship hàng chiến đấu và thiết kế xây dựng vùng giải phóng .Mặc dù vẫn còn những khó khăn vất vả trong nền kinh tế tài chính như sản xuất sản phẩm & hàng hóa ship hàng đời sống nhân dân còn thiếu, phải nhập khẩu từ những nước xã hội chủ nghĩa ; những hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cao còn chưa nhiều, tuy nhiên Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất ( 1961 – 1965 ) đã làm biến hóa to lớn bộ mặt xã hội miền Bắc .

Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961–1965) đang thực hiện có kết quả thì ngày 7 tháng 2 năm 1965, Mỹ chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc Việt Nam. Miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện chiến tranh.

Giai đoạn 1966 – 1976

Bước vào tiến trình mới với trường hợp cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc rất quyết liệt bằng không quân của Mỹ qua hai đợt ( 1964 – 1968 và 1972 ), Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương kịp thời để chuyển hướng kinh tế tài chính nói chung và công nghiệp nói riêng : Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, Nghị quyết Trung ương 105 ( 1965 ) và Chỉ thị 143 TW ( 1969 ) về chuyển hướng tăng trưởng công nghiệp địa phương và tiểu thủ công nghiệp trong tình hình mới có cuộc chiến tranh ; Chỉ thị số 11 của phủ Thủ tướng ( 9 tháng 1 năm 1971 ) về không thay đổi và nâng cấp cải tiến công tác làm việc quản trị công nghiệp và xí nghiệp sản xuất công nghiệp quốc doanh ( đợt thử nghiệm nâng cấp cải tiến quản trị công nghiệp bước I ), Chỉ thị của Thủ tướng nhà nước về việc liên tục tăng cường nâng cấp cải tiến công tác làm việc quản trị công nghiệp thời kỳ độc lập Phục hồi 1973 – 1975 ( đợt nâng cấp cải tiến quản trị công nghiệp bước II ) .Tinh thần và nội dung của sự chuyển hướng này không chỉ là để tương thích với tình hình thời chiến, mà còn nhằm mục đích thay đổi chính sách quản trị là xác lập đường lối công nghiệp hóa cho tương thích với điều kiện kèm theo quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Chủ trương và những nội dung đa phần chuyển hướng tăng trưởng công nghiệp trong tiến trình mới là :Thứ nhất, chuyển dời nhanh gọn những cơ sở sản xuất và kho tàng về nơi sơ tán, bảo vệ bảo đảm an toàn nhà máy sản xuất, duy trì sản xuất trong mọi trường hợp, nâng cấp cải tiến công tác làm việc tổ chức triển khai sản xuất công nghiệp tương thích với tình hình có cuộc chiến tranh, tích hợp sản xuất và chiến đấu, bảo vệ phân phối những sản phẩm & hàng hóa tiêu dùng thiết yếu và duy trì đời sống nhân dân không bị đảo lộn trong cuộc chiến tranh .Thứ hai, khẩn trương kiến thiết xây dựng và tăng trưởng mạng lưới công nghiệp địa phương về những vùng hậu phương trung du và miền núi, phân bổ lại sản xuất công nghiệp để gắn với nguồn nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ, gắn công nghiệp với nông nghiệp và với những ngành kinh tế tài chính quốc dân khác, gắn kinh tế tài chính với quốc phòng .Thứ ba, kiểm soát và chấn chỉnh lề lối quản trị kinh tế tài chính, chống căn bệnh hành chính tập trung chuyên sâu quan liêu, tăng cường tính tự chủ của cơ sở, giảm sự can thiệp hành chính vào kinh doanh thương mại .Cuối cùng, tính tới nhu yếu tăng trưởng vĩnh viễn, ngay trong cuộc chiến tranh vẫn thực thi điều tra và nghiên cứu tìm hiểu cơ bản, thăm dò và khảo sát, lập quy hoạch dài hạn, có kế hoạch đào tạo và giảng dạy đội ngũ để sẵn sàng chuẩn bị cho thiết kế xây dựng lớn khi tự do .

Thuế khóa

Thuế nông sản

Loại thuế chính là thuế nông sản, đánh trực tiếp và tính theo đầu người chứ không phải theo hiệu suất. Dưới 70 kg nông sản / người thì được miễn thuế. Nhà nước đánh thuế 5 % ở ngạch 70 – 95 kg / người và tăng lên thành 44 % ở ngạch trên 1800 kg / người. Đất mới đưa vào canh tác thì được miễn 5 năm. Khoảnh đất 100 m² vườn cũng được miễn. [ 141 ]

Thuế gián tiếp

Thuế nhập khẩu tùy thuộc vào mẫu sản phẩm ; sản phẩm & hàng hóa thuộc hàng xa xỉ phẩm chịu 100 % thuế. Thuế mổ thịt gia súc là 10 %. Ngoài ra có thuế chợ, thuế cầu, thuế đò, và thuế con niêm. [ 141 ]

Đóng góp

Nhà nước cũng kêu gọi quyên góp cho những khu công trình và ngân sách một cách tự nguyện. [ 141 ]

Ngoại giao

Ngay từ khi mới thành lập chính quyền, Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh đã đặt ra yêu cầu “Phải mở cho được một cửa ngõ ra thế giới”. Ban đầu, ông hướng tới nước Mỹ do mối quan hệ đồng minh chống Nhật. Tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tám lần gửi thư đến Tổng thống Harry S. Truman và Ngoại trưởng James F. Byrnes, nhưng không nhận được hồi âm.[142] Tháng 7, chính phủ cử Nguyễn Đức Quỳ làm Phái viên tại Thái Lan, đây cũng là cơ quan đại diện ngoại giao đầu tiên của chính quyền Việt Nam tại nước ngoài.[143] Trong chuyến đi Pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ David Ben-Gurion, lãnh đạo phong trào phục quốc Do Thái. Lãnh đạo Việt Nam ngỏ ý sẵn sàng thiết lập đại diện ngoại giao khi chính phủ Do Thái lưu vong được thành lập, đồng thời có thể cho những người Do Thái đến Tây Nguyên tị nạn.[144] Năm 1947, Việt Nam đặt cơ quan liên lạc đầu tiên tại Yangon (Miến Điện).[145] Từ tháng 1 cùng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu duy trì điện đàm với các nhà lãnh đạo Ấn Độ khi nước này giành được quyền tự trị từ người Anh.[146]

Tuy vậy, trong 4 năm đầu, quan hệ ngoại giao chính thức duy nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là với Pháp, khi Pháp công nhận là một nước tự do thuộc Liên hiệp Pháp tại Hiệp định sơ bộ năm 1946. Nhưng hiệp định này không còn giá trị khi Pháp triển khai thảm sát ở phố Hàng Bún và Thảm sát Hải Phòng Đất Cảng. Cho đến khi cuộc chiến tranh nổ ra, những nước khác vẫn coi Nước Ta là một chủ quyền lãnh thổ thuộc địa của Pháp, mặc dầu về mặt thực tiễn, Nước Ta đã là một vương quốc thống nhất, độc lập và có chủ quyền lãnh thổ với sự chỉ huy của chính quyền sở tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhất là từ sau Tổng tuyển cử năm 1946 .Năm 1950, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt liên lạc với Hệ thống xã hội chủ nghĩa và mở màn được nhiều nước công nhận, khởi đầu bởi Trung Quốc ( 18/1/1950 ) và Liên Xô ( 30/1/1950 ), tiếp theo là CHDCND Triều Tiên ( 31/1/1950 ), Đông Đức ( 2/2/1950 ), Tiệp Khắc ( 2/2/1950 ), România ( 3/2/1950 ), Ba Lan ( 4/2/1950 ), Hungary ( 4/2/1950 ), Bulgaria ( 8/2/1950 ), Albania ( 13/3/1950 ). Năm 1954, Mông Cổ mới đặt quan hệ ngoại giao với Nước Ta .Cùng năm khi tiếp quản TP. Hà Nội, quản trị Hồ Chí Minh ra sắc lệnh công nhận cơ quan ngoại giao của Ấn Độ tại Thành Phố Hà Nội. Ngày 17 tháng 10 năm 1954, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru sang thăm Nước Ta. [ 147 ] Tháng 11, Thủ tướng Miến Điện U Nu sang thăm Nước Ta. Bang giao với Ấn Độ cùng với Indonesia và Miến Điện vẫn giữ ở bậc lãnh sự. [ 148 ]Ở Trung Đông và Bắc Phi thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập bang giao với Maroc và Algérie. Cuba là vương quốc duy nhất ở Tây bán cầu có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [ 148 ] .Các nước Tây phương thì mãi đến năm 1968 mới lập phòng liên lạc và đại diện thay mặt bán chính thức là Thụy Sĩ. Tuy nhiên đây chỉ là cấp bán chính thức, không có đại sứ. Năm 1969, Thụy Điển là vương quốc Tây Âu tiên phong thiết lập ngoại giao toàn phần với miền Bắc kể cả trao đổi đại sứ. Theo sau đó là Sénégal ( 1969 ), Ceylon ( 1970 ), Thụy Sĩ ( 1971 ), Ấn Độ ( 1972 ), Chile và Pakistan [ 149 ]. Tính đến hết tháng 12 năm 1972, có 49 vương quốc bang giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [ 150 ]. Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 12 tháng 4 năm 1973 [ 151 ] .Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Cộng hòa Miền Nam Nước Ta đứng 2 đơn gia nhập Liên Hiệp Quốc nhưng bị Mỹ phủ quyết cả hai [ 152 ]. Tuy nhiên cũng năm này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được gia nhập 2 tổ chức triển khai quốc tế là WMO ( World Meteorological Organization, Tổ chức Khí tượng Thế giới ) ngày 7 tháng 8 năm 1975 và WHO ( World Health Organization, Tổ chức Y tế Thế giới ) ngày 22 tháng 10 năm 1975. Đây là hai tổ chức triển khai quốc tế tiên phong ( không kể những tổ chức triển khai riêng của khối Xã hội chủ nghĩa ) vương quốc này tham gia [ 150 ] .

Quân đội

Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu gồm nhiều lực lượng độc lập nhau, ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Sau nhiều lần sáp nhập, tổ chức triển khai lại, những lực lượng quân sự chiến lược do Việt Minh và những nhóm chính trị khác chỉ huy thống nhất trong một mạng lưới hệ thống quân sự chiến lược duy nhất là Vệ quốc đoàn, sau Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Nước Ta .

Ở miền Nam, Vệ quốc đoàn có nhiều đơn vị của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên tuy chấp hành những chỉ thị quân sự của cấp trên nhưng lại từ chối tiếp nhận các chính ủy do cấp trên cử xuống. Sau những xung đột quân sự giữa các đơn vị do giáo phái chỉ huy với những đơn vị do Việt Minh chỉ huy, và nhất là sau khi giáo chủ Huỳnh Phú Sổ của Hòa Hảo mất tích, lực lượng quân sự của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên ly khai khỏi Vệ quốc đoàn hợp tác với chính phủ Cộng hòa tự trị Nam Kỳ và sau này với Quốc gia Việt Nam.[153]

Năm 1950, Quân đội Quốc gia Nước Ta đổi tên thành Quân đội Nhân dân Nước Ta. Sau năm 1975, quân đội của nước Nước Ta thống nhất vẫn giữ tên gọi Quân đội nhân dân Nước Ta cho đến nay .

Giáo dục đào tạo

Xem thêm

Ghi chú

Chú thích

Tham khảo

Liên kết ngoài

Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nhân