E21 lỗi quạt ngăn đá tủ lạnh Samsung side by side https://appongtho.vn/nguyen-nhan-tu-lanh-samsung-bao-loi-e21 Lỗi E21 trên tủ lạnh Samsung thường là một trong những lỗi phổ biến mà người sử dụng...
Chương 1 CÁC NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ VÀ VAI TRÒ CỦA ỨNG DỤNG TIN – Tài liệu text
được chính xác số lượng, chất lượng, thành phần, nội dung, tình hình tài liệu,
tình hình cán bộ và hệ thống bảo quản trong công tác lưu trữ” [12, 173].
Tương tự như vậy, Từ điển Thuật ngữ Lưu trữ Việt Nam xuất bản năm
1992 cũng đã định nghĩa thống kê tài liệu lưu trữ là “quá trình ghi chép số
lượng, thành phần, nội dung, tình hình tài liệu và hệ thống bảo quản trong các
lưu trữ” [13, 77].
Trong cuốn “Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ” của tập thể các tác
giả bộ môn lưu trữ học, khoa Lịch sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, xuất
bản năm 1990 định nghĩa như sau: “Thống kê tài liệu là sử dụng những
phương pháp và phương tiện thích hợp để xác định rõ ràng và chính xác số
lượng, thành phần tài liệu, tình hình và hệ thống bảo quản chúng” [11, 145].
Phân tích các định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy các định nghĩa đều
bao hàm nội dung là áp dụng các phương pháp thống kê để nhằm mục đích
nắm được số lượng tài liệu trong các kho lưu trữ. Tuy nhiên, xét về mặt nội
hàm của khái niệm, các khái niệm này đều chưa chính xác ở những điểm sau:
Trong các khái niệm nêu trên, đối tượng công tác thống kê quá rộng,
vượt khỏi phạm vi khái niệm tài liệu lưu trữ. Đối tượng thống kê trong các
định nghĩa này thuộc phạm vi khái niệm thống kê công tác lưu trữ. Thống kê
tài liệu lưu trữ chỉ cung cấp các số liệu về tài liệu lưu trữ, bởi vì đối tượng tài
liệu lưu trữ chỉ là tài liệu lưu trữ, do vậy, thống kê tài liệu lưu trữ không cung
cấp số liệu về tình hình cán bộ và hệ thống bảo quản.
Thống kê tài liệu lưu trữ không cho phép chúng ta nắm được chính xác
chất lượng của đối tượng thống kê, đó là tài liệu lưu trữ. Nó chỉ có thể cho
phép chúng ta nắm được các thông tin về số lượng, khối lượng, thành phần
của tài liệu lưu trữ, còn về nội dung của chúng, thống kê chỉ đề cập đến một
cách khái quát, tuỳ thuộc vào từng cấp độ và đối tượng của thống kê.
19
Như vậy, về mặt thuật ngữ, hiện tại chúng ta chưa có một khái niệm
thống nhất và chuẩn xác về thống kê tài liệu lưu trữ. Việc nghiên cứu đưa ra
một khái niệm thống nhất và chuẩn xác về thống kê tài liệu lưu trữ là hết sức
cần thiết. Với đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống công cụ thống kê các loại
tài liệu lưu trữ” do Tiến sĩ Nguyễn Cảnh Đương làm Chủ nhiệm cùng tập thể
các nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học, Cục Lưu trữ Nhà
nước tiến hành, khái niệm này được hiểu như sau: “Thống kê tài liệu lưu trữ
là quá trình ghi chép và phản ánh số lượng, khối lượng và thành phần của tài
liệu lưu trữ theo các đơn vị thống kê trong hệ thống các công cụ thống kê tài
liệu lưu trữ” [31, 10].
Theo định nghĩa trên thì có thể hiểu rằng, thống kê tài liệu lưu trữ trước
hết là một quá trình, đối tượng thống kê là tài liệu lưu trữ. Chúng tôi cho
rằng,
trước hết khái niệm này cho phép chúng ta phân biệt với khái niệm về thống
kê công tác lưu trữ. Có nghĩa là, thống kê tài liệu lưu trữ chỉ là một trong
những nhiệm vụ cơ bản của thống kê công tác lưu trữ. Thống kê công tác lưu
trữ bao gồm: thống kê tài liệu lưu trữ, thống kê các công cụ tra cứu khoa học
và các thông tin đối với tài liệu lưu trữ, thống kê các phương tiện bảo quản tài
liệu lưu trữ. Theo nội dung này, thống kê công tác lưu trữ có đối tượng rộng
hơn nhiều so với thống kê tài liệu lưu trữ. Tuy nhiên, khái niệm mới của các
nhà nghiên cứu cũng chưa thể coi là toàn diện và chính xác, vì nó mới chỉ đề
cập đến mục tiêu của thống kê tài liệu lưu trữ, phạm vi thống kê tài liệu lưu
trữ. Về mặt phương pháp, khái niệm đó cho rằng “thống kê tài liệu lưu trữ là
quá trình ghi chép…” có lẽ chưa chính xác, bởi chúng ta đều biết rằng, muốn
có các kết quả thống kê tài liệu lưu trữ chính xác, đầy đủ, cũng đòi hỏi phải áp
20
dụng các phương pháp, phương tiện khoa học, không chỉ đơn thuần là việc
ghi chép, tính toán giản đơn.
Mới đây nhất, trong cuốn “Những nguyên tắc công tác chủ yếu của các
Viện lưu trữ cố định Liên bang Nga” và cuốn “Những nguyên tắc công tác
chủ yếu của các lưu trữ cơ quan” do Tổng cục Lưu trữ Liên bang Nga xuất
bản năm 2002 (tiếng Nga), thì khái niệm thống kê tài liệu lưu trữ được hiểu
là: việc xác định số lượng và thành phần của tài liệu trong đơn vị thống kê và
đăng ký vào sổ thống kê, trong đó đăng ký rõ ràng địa chỉ tài liệu, sự thiếu đủ
của tài liệu, trạng thái vật lý của tài liệu [86, 98].
Trong lưu trữ cơ quan, việc thống kê tài liệu được hiểu theo ba nội
dung sau:
– Đó là sự xác định số lượng và thành phần của tài liệu trong những đơn
vị thống kê đã được ấn định và đăng ký chúng vào các công cụ thống kê;
– Thống kê tài liệu được hiểu là sự đăng ký chúng từ khi thu vào lưu
trữ, sự hiện diện, số lượng, thành phần và tình trạng vật lý của tài liệu trong
đơn vị thống kê.
– Thống kê tài liệu trong lưu trữ cơ quan là một trong những phương
pháp bảo đảm cho công tác bảo quản, kiểm tra sự có mặt của tài liệu trong
kho. [87, 48].
Như vậy, có thể nhận thấy rằng khái niệm này đã chỉ ra khá rõ ràng và
chuẩn xác đối tượng và phạm vi của thống kê tài liệu lưu trữ: đó là sự hiện
diện về số lượng, thành phần và tình trạng vật lý của tài liệu trong các đơn vị
thống kê trong kho lưu trữ.
Xuất phát từ những lý giải và thông tin trên, chúng tôi cho rằng, khái
niệm thống kê tài liệu lưu trữ có thể được hiểu một cách chung nhất như sau:
21
“Thống kê tài liệu lưu trữ là quá trình vận dụng những nguyên tác,
phương pháp và phương tiện nghiệp vụ thống kê để xác định rõ ràng và chính
xác số lượng, thành phần và tình trạng vật lý của tài liệu theo các đơn vị
thống kê trong hệ thống các công cụ thống kê tài liệu lưu trữ trong các kho
lưu trữ”.
Khái niệm này cho phép chúng ta xác định tương đối rõ ràng mục đích,
phạm vi của thống kê tài liệu lưu trữ, cũng như phương pháp cơ bản trong
thống kê tài liệu lưu trữ.
Theo chúng tôi, chỉ khi nào hiểu rõ được khái niệm này, các nhà lưu trữ
mới có thể tiến hành xây dựng hệ thống công cụ thống kê và các phương pháp
thống kê phù hợp, nhằm nắm được chính xác, đầy đủ số liệu thống kê phục vụ
cho công tác quản lý cũng như tra tìm tài liệu trong các kho lưu trữ. Nắm chắc
khái niệm thống kê tài liệu là một trong những điều kiện quan trọng khi
nghiên cứu ứng dụng máy tính vào thống kê tài liệu, là cơ sở để xác định rõ
mục đích, yêu cầu, phạm vi đối tượng của thống kê.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của thống kê tài liệu
Theo khái niệm đã phân tích trên đây, mục đích cơ bản của thống kê tài
liệu lưu trữ là nhằm xác định số lượng của tài liệu lưu trữ theo các đơn vị
thống kê, phục vụ cho công tác quản lý tài liệu lưu trữ.
Một trong những chức năng quan trọng của các kho lưu trữ là phải nắm
được cụ thể thành phần tài liệu thuộc diện quản lý, từ đó có phương hướng bổ
sung những tài liệu còn thiếu vào kho lưu trữ. Các kết quả thống kê tài liệu
lưu trữ có thể giúp cho các nhà quản lý kho lưu trữ xác định được phương
hướng này một cách đầy đủ, chính xác.
Trong tổ chức sử dụng tài liệu lưu trữ, các kết quả của thống kê tài liệu
lưu trữ giúp cho các kho lưu trữ chủ động hơn trong phục vụ các yêu cầu khai
thác, sử dụng tài liệu lưu trữ. Trên cơ sở hệ thống công cụ thống kê, các nhà
22
lưu trữ có thể xây dựng các công cụ tra cứu khoa học cho các kho lưu trữ,
phục vụ tra tìm tài liệu một cách thuận lợi, chính xác.
Trên cơ sở các số liệu thống kê tài liệu lưu trữ, các cơ quan lưu trữ có
thể xác định nhiệm vụ đặt ra cho ngành mình trong từng năm hay dài hạn như
các kế hoạch về sưu tầm, thu thập, chỉnh lý khoa học tài liệu, tu bổ phục chế,
làm bảo hiểm hay xây dựng kho tàng bảo quản tài liệu lưu trữ…
1.1.3. Yêu cầu và nguyên tắc của công tác thống kê tài liệu
1.1.3.1. Yêu cầu
– Cũng như trong bất cứ một lĩnh vực khoa học nào khác của đời sống
xã hội, thống kê công tác lưu trữ nói chung và thống kê tài liệu lưu trữ nói
riêng đòi hỏi phải cụ thể và chính xác. Các kết quả thống kê tài liệu lưu trữ
phải bảo đảm cung cấp những số liệu chính xác, cụ thể về khối lượng, thành
phần tài liệu của từng phông hay trong toàn kho lưu trữ.
– Công tác thống kê tài liệu lưu trữ còn đòi hỏi phải kịp thời và toàn
diện. Yêu cầu này đòi hỏi các cơ quan hoặc kho lưu trữ phải thực hiện công
tác thống kê tài liệu lưu trữ đúng thời hạn quy định, đáp ứng các yêu cầu đặt
ra của công tác quản lý tài liệu lưu trữ.
– Thống kê tài liệu lưu trữ phải khoa học, các công cụ thống kê phải
phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu thực tế. Tính khoa học của hệ thống công
cụ thống kê biểu hiện ở sự áp dụng hiệu quả các công cụ này trong thực tế:
đơn giản, dễ áp dụng, chính xác, phản ánh được nhiều loại đối tượng thống kê
khác nhau của tài liệu lưu trữ.
1.1.3.2. Nguyên tắc của thống kê tài liệu lưu trữ
a) Thống kê tài liệu lưu trữ là một trong những nhiệm vụ cơ bản của
công tác lưu trữ, do vậy, nó cũng phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của
23
công tác lưu trữ. Một trong những nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc tập
trung thống nhất.
Theo nguyên tắc này, nhiệm vụ thống kê tài liệu lưu trữ được thực hiện
dưới sự chỉ đạo của cơ quan quản lý tài liệu lưu trữ cao nhất trong hệ thống về
mặt tổ chức cũng như nghiệp vụ. Theo quyền hạn của mình, cơ quan quản lý
lưu trữ có trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện công tác thống
kê ở các cơ quan lưu trữ thuộc phạm vi quản lý, tập hợp và xử lý các số liệu
thống kê để gửi lên cơ quan quản lý cao hơn.
Nguyên tắc này còn biểu hiện sự thống nhất về các yếu tố mô tả cũng
như các ký hiệu dùng để cố định kết quả thống kê tài liệu lưu trữ. Điều này
bảo đảm tính liên tục trong thống kê, tính nhất quán và khả năng bổ sung lẫn
nhau về số liệu giữa các công cụ thống kê được lập ra ở từng cấp độ thống kê.
Biểu hiện rõ nhất của nguyên tắc tập trung thống nhất là các quy trình,
phương pháp thống kê tài liệu trong các cơ quan lưu trữ phải dựa trên cơ sở
sự chỉ đạo thống nhất của cơ quan quản lý nhà nước cao nhất về lưu trữ. Có
như vậy, các số liệu thống kê mới bảo đảm nhất quán, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thống kê ở các cấp độ cao hơn.
b) Nguyên tắc thống nhất với công tác bảo quản
Công tác thống kê tài liệu lưu trữ được thực hiện dựa vào mạng lưới
các kho lưu trữ đã được quy định cho toàn bộ Phông lưu trữ quốc gia. Ngược
lại, hệ thống các công cụ thống kê lại chính là phương tiện để cố định vị trí
bảo quản tài liệu trong các kho lưu trữ, bảo đảm giữ gìn cho các khối tài liệu
không bị xáo trộn trong quá trình di chuyển và sử dụng chúng.
Sự thống nhất giữa thống kê và bảo quản tài liệu lưu trữ không những
là nguyên tắc mà còn là một yêu cầu khách quan nhằm bảo đảm thực hiện
nhiệm vụ tổ chức khoa học tài liệu trong từng lưu trữ. Nguyên tắc này yêu cầu
sự thống nhất giữa thống kê và tổ chức khoa học tài liệu lưu trữ, có nghĩa là
24
phải bảo đảm sự thống nhất giữa thống kê và tổ chức vật lý tài liệu theo các
cấp độ phân loại khác nhau, từ phân loại trong từng phông lưu trữ tới phân
loại trong toàn kho lưu trữ và mạng lưới các kho lưu trữ. Việc tổ chức khoa
học tài liệu trong từng phông hay tổ chức các phông tài liệu trong một kho lưu
trữ nhằm cố định vị trí của đối tượng thống kê theo phương án hệ thống hoá.
Phương án này tuỳ thuộc vào các đặc điểm của từng loại tài liệu (tài liệu
truyền thống, tài liệu khoa học kỹ thuật, tài liệu nghe nhìn…). Việc thống kê
tài liệu lưu trữ theo nguyên tắc phân cấp quản lý và theo phạm vi bảo quản sẽ
cho phép xác định được thành phần, khối lượng tài liệu theo từng cấp bậc,
từng phạm vi cụ thể, chỉ rõ vị trí bảo quản của từng khối tài liệu trong mối
liện hệ giữa chúng với các khối tài liệu khác có liên quan. Nó cũng cung cấp
cho cơ quan quản lý lưu trữ những số liệu tổng hợp để xem xét một cách toàn
diện tài liệu thuộc quyền quản lý của mình.
Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc trên, khi tiến hành thống kê phải có
những số liệu thống kê nhất quán, phản ánh trung thực số lượng, thành phần
và nội dung của đối tượng thống kê, đồng thời tạo lập thông tin chính xác về
địa chỉ tra cứu tài liệu. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm được chính xác số
lượng, thành phần, nội dung cơ bản của tài liệu lưu trữ theo các cấp độ thống
kê, phục vụ cho việc quản lý và tra tìm khai thác tài liệu lưu trữ. Cần đặc biệt
chú ý tới điều kiện là một đối tượng thống kê nhất định chỉ là một địa chỉ duy
nhất để kiểm tra, tìm kiếm đối tượng đó trong lưu trữ. Nói một cách khác, mỗi
đối tượng thống kê đã được xác định thống kê một lần bằng một ký hiệu duy
nhất. Có nghĩa là ở mỗi cấp độ thống kê, một đối tượng thống kê chỉ có một
mã số thống kê. Mã số thống kê đó không được dùng để đánh cho một đối
tượng thống kê khác cùng cấp độ, ví dụ số phông lưu trữ chỉ được ghi một lần
khi nhập lần đầu tài liệu phông đó vào lưu trữ, nếu vì một điều kiện nào đó tài
liệu thuộc phông không còn trong kho nữa, thì số phông đó cũng không được
25
dùng để ghi cho phông tài liệu lưu trữ khác. Điều này rất quan trọng, vì nếu
không làm đúng theo nguyên tắc này thì việc tổng hợp số liệu thống kê cũng
như việc tra tìm một cách nhanh chóng và chính xác tài liệu lưu trữ theo yêu
cầu sẽ không thực hiện được, đặc biệt sẽ gây khó khăn cho sự ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý và khai thác tài liệu lưu trữ.
c) Nguyên tắc bảo mật về số liệu thống kê và các công cụ thống kê.
Nguyên tắc này trước đây chưa được đề cập đến trong lý luận công tác lưu
trữ. Các nhà nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thống công cụ thống
kê các loại tài liệu lưu trữ” của Cục Lưu trữ Nhà nước đã đưa ra nguyên tắc
này trên cơ sở các văn bản pháp lý của Nhà nước về bảo vệ bí mật quốc gia và
thực tiễn công tác lưu trữ. Có thể coi đây là một trong những nguyên tắc rất
quan trọng bởi vì, các số liệu thống kê đều phản ánh trung thực về nơi bảo
quản tài liệu, thành phần và nội dung cơ bản của tài liệu, kể cả những tài liệu
chứa thông tin bí mật nhà nước. Cho nên, thực hiện nguyên tắc bảo mật số
liệu thống kê tài liệu lưu trữ là trách nhiệm chung của cơ quan lưu trữ theo
quy định của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ bí mật Nhà
nước. Nguyên tắc này được đề ra cũng nhằm bảo đảm cung cấp thông tin đầy
đủ, chính xác, kịp thời cho các nhà quản lý tài liệu lưu trữ và nâng cao trách
nhiệm của các cơ quan lưu trữ đối với tài liệu lưu trữ.
Thực hiện nguyên tắc này, khi xây dựng các công cụ thống kê và đặc
biệt khi ứng dụng tin học trong công tác này, cần tính đến khả năng bảo vệ bí
mật về số liệu thống kê cơ bản. Khi các yêu cầu về khai thác thông tin trên
mạng và thông tin trên Internet càng trở nên phổ biến thì việc xây dựng các
chương trình bảo mật các số liệu và các thông tin có ý nghĩa bí mật nhà nước
được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết cho các nhà lưu trữ và các chuyên gia
xử lý thông tin trên máy tính.
1.2. Nội dung và phƣơng pháp thống kê tài liệu lƣu trữ
26
1.2.1. Các đơn vị thống kê tài liệu lưu trữ
Như đã nêu trong phần khái niệm thống kê tài liệu lưu trữ, thống kê tài
liệu lưu trữ là quá trình ghi chép và phản ánh số lượng, khối lượng và thành
phần của tài liệu lưu trữ theo các đơn vị thống kê trong hệ thống các công cụ
thống kê tài liệu lưu trữ. Như vậy, chúng ta cần phải hiểu một cách đầy đủ và
đúng đắn về đơn vị thống kê tài liệu lưu trữ.
Theo các nhà nghiên cứu thì việc xác định các đơn vị thống kê tài liệu
lưu trữ còn tuỳ thuộc vào từng loại hình tài liệu và cấp độ thống kê. Tài liệu
lưu trữ rất đa dạng về loại hình: tài liệu hành chính, tài liệu khoa học kỹ thuật,
tài liệu nghe nhìn như ảnh, phim điện ảnh, ghi âm, đĩa CD…, tài liệu điện tử.
Quá trình thống kê tài liệu lưu trữ được tiến hành theo 4 cấp độ khác nhau:
cấp độ hồ sơ, cấp độ mục lục hồ sơ, cấp độ phông lưu trữ và cấp độ các lưu
trữ. Mỗi loại hình tài liệu và mỗi cấp độ thống kê đều có những đơn vị thống
kê nhất định.
Trong phạm vi một cơ quan quản lý lưu trữ hoặc ngay trong một kho
lưu trữ, phông lưu trữ là một cấp độ để thống kê tài liệu trong phạm vi toàn
kho. Trong phạm vi một kho hay trong từng phông lưu trữ, đơn vị thống kê
chủ yếu được sử dụng là hồ sơ và đơn vị bảo quản. Bởi vì, có trường hợp, một
hồ sơ có một hoặc nhiều đơn vị bảo quản, nếu chỉ thống kê theo hồ sơ thì sẽ
không nắm được chính xác trong phông hoặc trong kho có bao nhiêu đơn vị
bảo quản. Tuy nhiên, việc thống kê tài liệu theo đơn vị hồ sơ hay đơn vị bảo
quản cũng còn tuỳ thuộc vào từng loại hình tài liệu hay từng yêu cầu quản lý
của mỗi kho lưu trữ.
Chẳng hạn, đối với tài liệu hành chính, đơn vị thống kê cơ bản là hồ sơ
hay đơn vị bảo quản theo đúng nghĩa chuẩn của từ này. Nhưng đối với các
loại tài liệu đặc thù khác như ảnh, phim điện ảnh thì đơn vị thống kê ở cấp độ
tương đương hồ sơ lại không hẳn là hồ sơ theo đúng nghĩa của từ này. Như
27
vậy, để hiểu một cách chính xác về khái niệm đơn vị thống kê trong lưu trữ,
cần phải xác định rõ đơn vị thống kê dùng cho loại hình tài liệu và được sử
dụng cho từng cấp độ thống kê đó.
Theo các nhà lưu trữ học của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đơn
vị thống kê tài liệu trong lưu trữ là đơn vị đo lường về số lượng tài liệu được
dùng trong công tác lưu trữ như tờ, hồ sơ, phông lưu trữ, bộ thiết kế, một
phần của phim điện ảnh, phim, microphim, tài liệu ghi âm, một mét dài tài
liệu… [77, thuật ngữ số 106]. Theo UNESCO, có thể đơn vị thống kê là những
đơn vị tính như: bản, tập, cái chiếc, giờ chiếu, giờ nghe (những đơn vị thống
kê văn hóa truyền thống nói chung và thống kê lưu trữ nói riêng) [46, 2-17].
Hoặc đối với tài liệu hành chính, đơn vị tính là số lượng phông, số lượng hồ
sơ, đơn vị bảo quản, số lượng mét giá để tài liệu lưu trữ.
Đối với tài liệu lưu trữ KHKT, đơn vị tính là số lượng công trình, số
lượng hồ sơ, đơn vị bảo quản, số lượng mét, số lượng bản vẽ. Đối với tài liệu
ghi âm là số cuộn băng, số lượng đĩa, số giờ nghe/phát. Đối với tài liệu ảnh,
đơn vị tính là chiếc/tấm ảnh, chiếc/tấm phim âm bản… Đối với tài liệu điện tử
được tính bằng mêgabai…
Như vậy, có thể thấy rằng, đơn vị tính của thống kê tài liệu lưu trữ rất
đa dạng, phụ thuộc vào từng loại hình tài liệu được đưa ra thống kê và mục
đích của việc thống kê loại tài liệu đó. Việc xác định đúng đắn các đơn vị
thống kê trong từng cấp độ thống kê, đối với từng loại hình tài liệu sẽ tạo
thuận lợi cho quá trình đặt các bài toán xử lý số liệu khi đưa các thông tin này
vào máy tính để tự động hoá công tác thống kê.
1.2.2. Công cụ và phương pháp thống kê tài liệu lưu trữ
Qua nghiên cứu công tác thống kê tài liệu lưu trữ của các Viện Lưu trữ
Nhà nước Liên Xô (trước đây) cũng như của các cơ quan lưu trữ hiện nay, có
28
thể thấy tài liệu lưu trữ hành chính thường được thống kê bằng các công cụ
chủ yếu sau đây:
1. Sổ nhập tài liệu lưu trữ
2. Danh sách phông
3. Phiếu phông và thẻ phông
4. Mục lục hồ sơ
5. Mục lục tài liệu văn kiện
6. Chứng từ kết thúc trong đơn vị bảo quản
7. Sổ nhập microphim tài liệu
8. Báo cáo tổng hợp công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ của Viện lưu
trữ
Ngoài các công cụ thống kê cơ bản nêu trên, các Viện lưu trữ Nhà nước
còn sử dụng các công cụ khác như: hồ sơ phông, sổ đăng ký mục lục hồ sơ, sổ
thống kê các phông đã chuyển cho các Viện lưu trữ Nhà nước khác, sổ thống
kê những biến đổi thường ngày về khối lượng và thành phần tài liệu các
phông…
Theo lý luận lưu trữ Việt Nam, hệ thống các công cụ thống kê tài liệu
lưu trữ bao gồm 2 loại:
– Các công cụ thống kê chủ yếu: gồm sổ nhập tài liệu lưu trữ, sổ xuất
tài liệu lưu trữ, danh sách phông, phiếu phông, mục lục hồ sơ, mục lục tài liệu
văn kiện, máo cáo tổng hợp.
– Các công cụ thống kê bổ trợ: gồm sổ đăng ký mục lục hồ sơ, hồ sơ
phông, các bộ thẻ.
Ngoài ra còn có các chỉ dẫn tài liệu trong kho hoặc các bản thống kê
tình trạng tài liệu, sổ thống kê tài liệu đặc thù như tài liệu nghe nhìn, tài liệu
quý hiếm, tài liệu bảo hiểm…. Các công cụ thống kê nêu trên có mối liên hệ
29
Source: https://vh2.com.vn
Category : Lưu Trữ VH2