Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh

Đăng ngày 14 January, 2023 bởi admin

Bạn đang xem tài liệu “Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

1. Mở đầu
- Lí do chọn đề tài
 Trong hệ thống giáo dục và đào tạo thì giáo dục bậc tiểu học là rất quan trọng. Trường tiểu học là nơi con người được tổ chức học tập một cách chính quy và có tổ chức nhất. Vào tiểu học, mỗi học sinh được tạo cơ hội để tiếp thu giáo dục, ý thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như vinh dự với các hoạt động học tập và rèn luyện. Trong chương trình tiểu học, cùng với môn toán môn Tiếng việt chiếm khá nhiều thời gian so với các môn học khác. môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường của lứa tuổi.Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như tập đọc, luyện từ và câu, kể chuyện, tập viết, chính tả, tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
	Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học tiểu học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng dạycác em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản- còn gọi là đoạn văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.
 Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của chương trình tập làm văn 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một kiểu bài khó vì học sinh không có khả năng quan sát tinh tế, không cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh hay những thay đổi của cảnh, không biết dựa vào cảm xúc của mình để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn. Làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả thì lại là một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm công tác giáo dục.
 Thực tế giảng dạy Tập làm văn phần tả cảnh, bản thân người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi cũng cảm thấy lúng túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết được bài văn hay, có hình ảnh có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn mà không có một sự hướng dẫn cụ thể nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh. 
 Là một giáo viên tiểu học tôi luôn trăn trở suy nghĩ để làm thế nào cho học sinh thích làm văn, viết văn chân thật, có cảm xúc và sinh động. Năm học 2015-2016, tôi mạnh dạn đề xuất một vài biện pháp nhỏ “Giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh” để bạn bè đồng nghiệp cùng tham khảo và suy nghĩ. 
- Mục đích nghiên cứu
 Từ những thực tế giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh, việc đưa ra một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt bài văn tả cảnh nhằm mục đích sau: 
 - Tìm hiểu những ưu điểm và hạn chế trong quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh.
 - Đưa ra một số biện pháp để phát huy các ưu điểm đó và đặc biệt là đề ra biện pháp để khắc phục những hạn chế khi dạy và học văn miêu tả. 
 - Giúp học sinh có hứng thú với phân môn Tập làm văn nói chung và văn tả cảnh nói riêng. 
- Đối tượng nghiên cứu
 Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt văn tả cảnh.
 - Phương pháp nghiên cứu
 * Phương pháp nghiên cứu xây dưng cơ sở lí thuyết. 
 - Đọc các tài liệu giáo dục có liên quan đến tâm lí học sinh, tài liệu, sách giáo khoa.
 - Đọc và tìm hiểu về một số phương pháp dạy Tiếng Việt, các tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt.
 * Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
 - Phỏng vấn học sinh các vấn đề có liên quan.
 - Đọc và phân tích bài văn của học sinh.
 - Trao đổi về phương pháp dạy học với giáo viên trong khối.
 * .Phương pháp tổng kết kinh nghiêm. 
 * .Phương pháp so sánh đối chiếu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 
 Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó xung quanh ta.
 Như vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động. Bất kì hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy nhiên bằng những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được lại được miêu tả với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn đạt khác nhau.
 Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh ta như biển cả, cánh đồng, hàng cây...Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc biệt tập trung vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh động và hấp dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật với nhưng cung bậc cảm xúc khác nhau.
 Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét riêng biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết về phương pháp làm văn, phải biết dùng từ ngừ, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật tu từ được học.
2.2. Thực trạng vấn đề 
a. Sách giáo khoa.
 Hiện nay theo phân phối chương trình trong sách giáo khoa có 19 tiết tả cảnh, trong đó có 13 tiết lý thuyết kết hợp thực hành, còn lại là kiểm tra và trả bài.
 Nội dung tả cảnh tập trung vào các cảnh : Một buổi trong ngày, một hiện tượng thiên nhiên, trường học, cảnh sông nước. Với các nội dung trên, yêu cầu viết lại chủ yếu là đoạn văn. Do đó, với mỗi cảnh học sinh ít được viết hoàn thiện một bài văn hoàn chỉnh ngay trên lớp để thầy cô và bạn bè trực tiếp góp ý.
b. Người học (về phía học sinh)
 - Học sinh chưa có hứng thú viết văn đặc biệt là văn miêu tả
 - Khi làm văn, học sinh miêu tả hời hợt, chung chung không là nổi bật được cảnh đang tả. 
 - Bài văn học sinh làm thường vay mượn ý tình của người khác, các em thường sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đầu bài quy định như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì, không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không có cảm xúc về nó.
 - Học sinh chưa có ý thức quan sát đối tượng miêu tả và ghi chép những điều quan sát được một cách cụ thể và chi tiết.
 - Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước cái đẹp còn hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở nên sinh động, ấn tượng hơn.
 - Học sinh chưa có phương pháp làm văn cụ thể, việc tiếp thu kiến thức làm văn đến vận dụng kiến thức đó chưa chủ động và linh hoạt.
 - Kĩ năng vận dụng các từ ngữ gợi hình, gợi tả và các biện pháp nghệ thuật tu từ còn lúng túng.
c Người dạy
 - Giáo viên chỉ có một con đường duy nhất là hình thành các hiểu biết về lí thuyết, thể loại văn, kĩ năng làm văn... Đó là qua phân tích các bài văn mẫu với lý thuyết khô khan, khó hiểu.
 - Giáo viên chưa chủ động, sáng tạo trong dạy học, chưa gây hứng thú cho học sinh khi học văn.
 - Một số giáo viên còn mắc bệnh thành tích trong dạy học. Để đối phó với việc học sinh làm kém và đảm bảo “chất lượng” khi kiểm tra, thi cử... nhiều cô giáo, thầy giáo cho học sinh học thuộc (làm sẵn) một số bài văn mẫu để các em khi gặp đầu bài tương tự cứ thế mà chép ra làm cho các em lệ thuộc vào bài mẫu, không có sáng tạo trong làm bài.
 - Ra đề bài chưa thích hợp với học sinh theo từng vùng miền, địa phương. Khiến học sinh vô cùng lúng túng khi miêu tả.
Ví dụ: Đề bài yêu cầu tả cánh đồng lúa chín, thực tế học sinh chưa được nhìn thấy hay được quan sát cánh đồng lúa bao giờ.
 - Giáo viên không thực hiện đúng các yêu cầu khi trả bài viết của học sinh, không giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giúp học sinh lớp 5 làm tốt văn tả cảnh
 Đứng trước thực trạng dạy và học như trên yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải đổi mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn thể loại miêu tả cảnh một cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn. 
 Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tôi xin đưa ra một số biện pháp để giải quyết trình bày các vấn đề được nêu ở trên để học sinh làm tốt bài văn tả cảnh như sau:
 - Học sinh cần nắm được 4 yêu cầu khi làm văn miêu tả:
 + Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?)
Ví dụ : Tả biển thì tập trung tả biển, không miên man tả sâu cảnh con đường dẫn ra biển hay cảnh trời mây vào thời điểm đó cho dù các sự vật đó cũng có liên quan.
 + Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?). Tả cảnh nào thì người đọc hình dung cảnh đó chứ không bị lẫn lộn với cảnh khác.
Ví dụ : Tả cảnh biển thì phải tả chủ yếu những yêu tố liên quan không thể tách rời như: Nước, sóng, thuyền bè, bãi cát...
 + Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì)
Ví dụ : Tả biển với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự hào của người dân quê hương.
 + Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Ví dụ : Tả biển với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp nên thơ...
 - Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả.
 + Bước 1: Tìm hiểu đề
 + Bước 2: Quan sát tìm ý
 + Bước 3: Sắp xếp ý (lập dàn ý)
 + Bước 4: Viết bài hoàn chỉnh
 + Bước 5: Kiểm tra lại bài.
 Tuy rằng hiện nay sách giáo khoa không còn những tiết riêng cho tìm hiểu đề, quan sát tìm ý nhưng qua mỗi đề văn giáo viên phải hướng dẫn học sinh làm theo các bước kể trên.
 Để rèn cho học sinh thói quen làm tuần tự theo các bước kể trên khi làm văn thì mỗi bước làm giáo viên cũng phải hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ về phương pháp cũng như cách suy nghĩ, cách thực hiện bài làm.
Cụ thể:
* Bước 1: Tìm hiểu đề
 - Tác dụng: Giúp học sinh xác định được yêu cầu đề bài, tránh làm lạc đề. Nói cách khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được mình đang làm bài văn thuộc thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu cầu, giới hạn đến đâu...
 - Cách thực hiện:
Hướng dẫn học sinh làm những công việc sau:
 + Đọc kĩ đề.
 + Phân tích đề.
	Phân tích đề bằng cách: 
 - Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
 - Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
 - Gạch một nét đứt dưới các từ xác định giới hạn miêu tả.
Ví dụ: Đề bài: Hãy miêu tả một cảnh đẹp nơi em ở vào một mùa trong năm.
Học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc trả lời các câu hỏi:
?/ Hãy xác định thể loại làm văn?
?/ Đối tượng miêu tả là gì?
?/ Mấy cảnh? Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào ?
Thể loại
Đối tượng miêu tả
 Giới hạn miêu tả
Miêu tả
Cảnh đẹp
Không gian
Thời gian
Đặc điểm
Nơi em ở
Một mùa trong năm
Một cảnh
 Sau khi trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành gạch chân trực tiếp trên đề bài.
 Đề bài: Hãy miêu tả một cảnh đẹp nơi em ở vào một mùa trong năm.
* Bước 2: Bước quan sát và tìm ý
 - Tầm quan trọng: Là bước quyết định thành công của bài văn, học sinh muốn viết được bài văn hay, sống động phải có được sự quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả và phải có sự ghi chép tỉ mỉ, chi tiết những đặc điểm mình miêu tả.
 - Cách thực hiện: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả nhiều lần và bằng nhiều giác quan khác nhau như thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác... nhằm giúp các em nhận biết về cảnh đầy đủ và chính xác hơn.
* Luyện kĩ năng quan sát: 
 Muốn quan sát có hiệu quả, quan sát phải có tính mục đích, người quan sát phải có cách nghĩ, cách cảm của riêng mình. Quan sát để làm văn nhằm phản ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có tính khái quát. Qua chi tiết, người đọc phải thấy được bản chất của sự việc. Vì vậy quan sát phải có lựa chọn. Nếu yêu cầu các chi tiết cụ thể nhưng đó không phải là những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính chất liệt kê. Chi tiết không cần nhiều mà phải chọn lọc, phải tinh. Đó là những chi tiết lột được các thần của cảnh. Khi quan sát, cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan và điều quan trọng là phải quan sát bằng tấm lòng. Mục đích quan sát sẽ quy định đối tượng và phương pháp quan sát. Để tả cảnh, cần xác định vị trí quan sát. thời điểm quan sát, trình tự và nội dung quan sát. Quan sát phải luôn gắn với việc tìm ý và tìm từ ngữ để diễn tả. Để giúp quan sát và tìm ý, với mỗi đề bài cần có một hệ thống câu hỏi gợi ý nội dung quan sát và các ý cần xác lập.
	Nếu học sinh không thực hiện tốt bước quan sát và tìm ý thì học sinh sẽ không có chất liệu để làm văn từ đó học sinh sẽ không có hứng thú làm bài hoặc sao chép bài văn từ những bài văn mẫu. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách ghi chép tỉ mỉ những điều mình quan sát tạo thành một cuốn cẩm nang để khi miêu tả học sinh có sẵn chất liệu để làm bài.
 Với bất kì một đề bài nào tôi cũng lập bảng quan sát và yêu cầu các en ghi kết quả quan sát vào bảng đó.
Mắt thấy
(Thị giác)
Tai nghe
( Thính giác)
Mũi ngửi
( Khứu giác)
Tay cầm
( Xúc giác)
 * Quan sát theo không gian ( Vị trí) 
Xa
Gần
Trên
Dưới
Trong
Ngoài
Bên trái
Bên phải
Đắng sau
Đằng trước
 Quan sát theo thời gian ( Thời điểm )
Sáng
Trưa
Chiều
Tối
Xuân
Hạ
Thu
Đông
Mưa. nắng
Ví dụ: Khi tả biển quê em.
Học sinh quan sát và hoàn thành bảng quan sát như sau:
Mắt thấy
(Thị giác)
- Biển rộng mênh mông, trải dài
- Thuyền bè đi lại trên biển tấp nập
- Sóng nhấp nhô
- Bãi cát trải dài, trắng xoá
- Mặt trời, mặt trăng soi báng xuống mặt nước
- Mặt biển loang loáng. lấp lánh
- Lũ trẻ tắm bơi lội tung tăng
- Ánh điện nhà máy tạo thành vết sáng loang loáng.
Tai nghe
( Thính giác)
- Sóng vỗ rì rào, soàn soạt
- Gió thổi bên hàng phi lao rì rầm, xào xạc
- Tiếng sóng xô mạn thuyền 
- Tiếng hát của ngư dân trong đêm trên biển
- .
Mũi ngửi
( Khứu giác)
- Mùi tanh tanh của thuyền no bụng cá
- Mùi mặn mà của muối biển.....
Tay cầm
( Xúc giác)
- Nước mát rượi
- 
 Từ những ghi chép quan sát trên thì chắc chắn các em sẽ làm được những bài văn vô cùng sinh động và hấp dẫn. Tuy nhiên quan sát bằng các giác quan chưa đủ mà giáo viên cũng cần phải hướng dẫn học sinh quan sát theo trình tự không gian và thời gian.
Ví dụ : Biển được quan sát theo trình tự thời gian.
Sáng
- Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối nhô lên.
- Nước biển màu hồng nhạt.
- Sóng đuổi nhau vào bờ cát.Bọt tung trắng xoá.
- Từng đoàn thuyền đánh cá rẽ màn sóng bạc ra khơi.
- Trên bờ cát ,các cụ ông,cụ bà tập thể dục.
Trưa
- Mặt trời chiếu tia nắng chói chang .
- Trời xanh thẳm,nước biển thẳm xanh.
- Biển vắng lặng không một bóng người.
Chiều
- Mặt trời gác trên rặng phi lao.
- Lũ trẻ ra biển chơi. Đám con trai thì đá bóng,thả diều.Bọn con gái thì xây những lâu đài trên cát.
- Chơi xong cả lũ nhảy tòm xuống biển .Biển như dang rộng cánh tay ôm chúng tôi vào lòng. Làn nước mát rượi ngập tràn tâm hồn lũ trẻ.
- Đoàn thuyền no bụng cá nối đuôi nhau cập bờ.
Tối
- Trăng lên, ánh trăng toả xuống mặt biển.
- Mặt biển như trải rộng mênh mông, bàng bạc một màu.
- Ánh điện Nhà máy Xi măng Nghi Sơn tạo thành vệt sáng lung linh.
Xuân
Hạ
- Biển như một nàng công chúa bước ra từ câu chuyện cổ tích.Biển ồn ào náo nhiệt.
Thu
- Nước biển dâng cao, mấp mé bờ.
- Sóng cuồn cuộn xô vào bờ soàn soạt.
Đông
Mưa. nắng
- Trời nắng, mặt biển lấp lánh như được dát vàng.
Nói tóm lại, giáo viên lưu ý cho học sinh khi quan sát một số điểm sau:
+ Khi quan sát học sinh phải nhìn ngắm cảnh trước mặt.
 + Học sinh phải quan sát nhiều lần, quan sát tỉ mỉ ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh ở thời gian, địa điểm khác nhau.
 + Khi quan sát học sinh phải tìm ra những nét chính, trọng tâm của cảnh, sẵn sàng bỏ đi những nét thừa không cần thiết( Cho nên học sinh không cần điền tất cả các ô gợi ý trên). 
 + Học sinh cần phải tìm được nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh. Phải bộc lộ cảm xúc hứng thú say mê của mình trước đối tượng quan sát.
 + Học sinh phải tìm được những từ ngữ chính xác, những câu văn ngắn ngọn để ghi lại những gì quan sát được .
* Bước 3. Sắp xếp ý và lập dàn ý
 - Sau khi quan sát và tìm ý, truớc khi lập dàn bài chi tiết, học sinh cần xác định trình tự miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Trình tự miêu tả trong văn tả cảnh có thể là trình tự không gian, có thể là trình tự thời gian tuỳ theo từng cảnh để lựa chọn cho phù hợp.
Ví dụ: Với bài tả khu vườn vào buổi sáng, ta nên chọn trình tự không gian.
+ Trước cửa vườn:
+ Giữa vườn:
+ Góc vườn bên trái:
+ Góc vườn bên phải:
+ Cuối vườn:
Tuy nhiên, ta vẫn có thể chọn trình tự thời gian:
+ Khoảng trời phía đông ửng hồng
+ Mặt trời bắt đầu nhô lên sau rặng tre.
+ Khi ánh nắng ban mai bắt đầu toả xuống...
+ Mặt trời lên cao.
Lập dàn ý.
 Do nội dung chương trình trong sách giáo khoa phân bố thì học sinh luyện viết các đoạn văn tả cảnh rất nhiều. Những bài văn tả cảnh hoàn chỉnh chỉ yêu cầu thực hiện trong các tiết kiểm tra. Chính vì thế, tôi đưa dàn ý chung cho một bài văn tả cảnh, và cả dàn ý cho một đoạn văn tả cảnh để học sinh dựa vào đó viết.
 + Dàn ý chung cho một bài văn tả cảnh cụ thể như sau
Bố cục
Dàn bài
1. Mở bài
- Giới thiệu cảnh định tả
2. Thân bài
* Tả bao quát 
* Tả chi tiết:
+ Tả từng bộ phận của cảnh ( Nếu lựa chọn trình tự không gian)
+ Tả cảnh theo sự thay đổi của thời gian ( nếu lựa chọn theo trình tự không gian.)
* Lưu ý: - Có thể kết hợp cả hai trình tự.
 - Lồng ghép tình cảm, cảm xúc và nhận xét đánh giá về cảnh trong quá trình miêu tả.
 - Kết hợp tả hoạt động của người song chỉ lướt qua để tránh nhầm sang dạng bài tả cảnh sinh hoạt.
3. Kết bài
+ Nêu nhận xét, đánh giá: 
+Tình cảm: 
+ Hành động : 
 + Dàn ý chung cho yêu cầu viết một đoạn văn.
Mở đoạn
Giới thiệu cảnh sẽ tả
Thân đoạn
Tả chi tiết những đặc điểm nổi bật của cảnh
Kết đoạn
Nêu tình cảm, nhận xét đánh giá về cảnh.
 Sau khi có trong tay dàn ý chung cho cho bài văn, học sinh sẽ áp dụng để lập dàn ý chi tiết. Dàn ý này cũng chính là cái sườn sát nhất cho học sinh viết thành bài văn cụ thể.
Ví dụ: 
 + Dàn ý cho bài văn tả cảnh khu vườn vào một buổi sáng theo trình tự không gian
Bố cục
Dàn ý chi tiết
1.Mở bài
- Khu vườn vào buổi sáng thật đẹp
2. Thân bài
Bao quát:
Khi nắng ban mai vàng như mật ong chiếu xuống, khu vườn như bừng tỉnh sau một đêm tắm sương.
+ Trước vườn:
- Nàng Hồng măng trên mình hạt sương long lanh đang e lệ trong lá.
- Cánh hoa đỏ thắm mịn màng, khum khum úp sát vào nhau.
- Nàng Cúc cũng thay cho mình bộ váy vàng rực rỡ để chờ đón anh ong bước đến chơi.
- Các nàng thi nhau toả hương làm cả một khoảng không gian thơm mát.
+ Giữa vườn:
- Hai hàng rau cải xanh mơn mởn chen nhau mọc.
- Những lá cải to bản thi nhau vươn cao hứng ánh nắng vàng óng.
+ Góc bên trái:
- Cây bưởi nặng nhọc mang trên mình những trái bưởi tròn lông lốc.
- Lũ sơn ca, hoạ mi ngủ đêm trên cành đang bay nhảy, cất tiếng hát véo von chào buổi sáng.
+ Góc bên phải:
- Mấy anh ớt đỏ gầy leo kheo đã tỉnh giấc.
- Anh ngả nghiêng vặn mình trong gió
+ Cuối vườn:
- Mẹ con bác chuối lục đục gọi nhau dậy tập thể dục.
- Những cánh tay to bản giơ cao phần phật trong gió
- Mấy đứa chuối con thấy chuối mẹ tập vỗ tay reo vui làm chút sương cuối cùng rơi vội xuống đất.
3. Kết bài
- Nhìn cảnh khu vườn vào buổi sáng mới thấy được vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của cây cối nơi đây.
 Lưu ý: Mỗi một ô của dàn bài chi tiết sẽ tạo thành một đoạn văn khi làm bài. Tuy vậy, tùy vào nội dung và khả năng mà các em có thể điều chỉnh thêm, bớt số đoạn cho phù hợp.
Bước 4: Tạo bài văn
 Đây là giai đoạn quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất, đòi hỏi học sinh phải linh hoạt vận dụng nhiều kiến thức để làm. Học sinh phải biết:
 + Dùng từ, đặt câu, dựng đoạn
 + Vận dụng phong cách ngôn ngữ văn bản
 + Bám sát dàn bài để viết thành bài văn hoàn chỉnh.
 Muốn học sinh làm tốt bước này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện theo

Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo