Networks Business Online Việt Nam & International VH2

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các dạng bài tập luyện từ và câu

Đăng ngày 14 January, 2023 bởi admin

Bạn đang xem tài liệu “SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các dạng bài tập luyện từ và câu”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

 PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN YÊN ĐỊNH 
 TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỊNH TƯỜNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH
 LỚP 5 LÀM TỐT CÁC DẠNG BÀI TẬP LUYỆN TỪ VÀ CÂU 
Người thực hiện: Nguyễn Thị Lan
Chức vụ: Hiệu Trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Định Tường
SKKN thuộc lĩnh mực: Tiếng Việt
 YÊN ĐỊNH, NĂM 2019
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN YÊN ĐỊNH 
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỊNH TƯỜNG	
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG
ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 2 NHẰM NĂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
DẠY PHÂN MÔN TẬP ĐỌC
Người thực hiện: Thiều Thị Tâm
Chức vụ: Giáo viên 
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Định Tường 
 SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tiếng Việt
YÊN ĐỊNH, NĂM 2016
 MỤC LỤC
NỘI DUNG 
1
1. MỞ ĐẦU
2
1.1. Lí do chọn đề tài
2
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. NỘI DUNG 
3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 
3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.	
3
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
13
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
14
3.1. Kết luận	
14
3.2. Kiến nghị	
15
I. MỞ ĐẦU
 1.1. Lí do chọn đề tài:
 Giáo dục ngày càng có vai trò to lớn và quan trọng hơn trong việc bồi dưỡng đạo đức, trang bị kiến thức cho học sinh. Trong giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người. Điều đầu tiên phải nói tới đó là việc hình thành ngôn ngữ cho học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ quan trọng, có tác dụng biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. 
 Ở Tiểu học, các môn học có tác dụng hổ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh đó là phải kể đến môn Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn tập đọc, tập làm văn,  song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
 Việc giải quyết các dạng bài tập luyện từ và câu lớp 5 có hiệu quả đặt ra cho các giáo viên Tiểu học là một vấn đề không đơn giản. Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đồng âm, từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ trái nghĩa, kiểu câu ghép, bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học rất dễ trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.
 Từ những lí do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập và 
giảng dạy thực tế, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu về “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 làm tốt các dạng bài tập luyện từ và câu” nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhất để vận dụng vào trong quá trình giảng dạy. 
 1.2. Mục đích nghiên cứu:
 - Góp phần tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu, đặc biệt là rèn kỹ năng làm tốt các bài tập liên quan đến phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
 - Đề xuất quy trình rèn kỹ năng làm một số dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 5.
 1.3. Đối tượng nghiên cứu:
 Học sinh lớp 5A - Trường Tiểu học Định Tường.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu:
 Từ điều tra thực trạng, trao đổi kinh nghiệm, khảo sát đưa ra nguyên nhân và các giải pháp, sử dụng phương pháp tổ chức đối chiếu trong giảng dạy.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: 
 Trong chương trình môn Tiếng việt ở Tiểu học, luyện từ và câu được tách thành phân môn độc lập, luyện từ và câu còn được dạy trong các phân môn khác thuộc môn Tiếng Việt và trong các giờ học của các môn học khác, điều đó nói lên ý nghĩa quan trọng của việc dạy luyện từ và câu ở bậc Tiểu học.
 Vốn từ là một trong những bộ phận cấu thành của ngôn ngữ không thể không dặc biệt coi trọng vốn từ cho học sinh trong giao tiếp thông thường cả người phát(nói- viết) và người nhận( nghe - đọc) đều cần nắm được từ, câu và sử dụng từ và câu một cách chuẩn xác thì việc giao tiếp mới diễn ra có hiệu quả, nhất là đối với học sinh độ tuổi Tiểu học. Khi mà vốn Tiếng Việt nói chung, vốn từ và câu nói riêng ở các em còn hạn chế, cần phải được bổ sung phát triển để đáp ứng các nhu cầu học tập giao tiếp....việc dạy từ và câu cho học sinh càng được coi là quan trọng không thể bỏ qua. 
 Nhưng mục đích chủ yếu của việc dạy từ và câu ở phân môn này là giúp học sinh hiểu và cảm thụ tốt nội dung bài văn (Trong phân môn tập đọc), vận dụng một cách thích hợp có hiệu quả trong việc làm một bài văn.
 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
 Thực trạng:
 a) Đối với chương trình sách giáo khoa:
 Số tiết phân môn Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 5 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.
 b) Đối với giáo viên:
 Phân môn Luyện từ và câu tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong ba nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học bài luyện từ và câu và là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiêu cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 5, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau:
 - Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lí giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
 - Một số ít giáo viên không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh. Còn lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
 - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
 - Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
 - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi cũng rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển, bồi dưỡng những em có năng khiếu. Song kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế.
 c) Đối với học sinh:
 Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng và tác dụng của phân môn Luyện từ và câu nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”.
 Nhiều em chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu,  Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.
 Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
 Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lí thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.
 Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:
 T«i ®· tiến hành khảo sát học sinh bằng bài tập sau: 
 Đề bài: Tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa với mỗi từ sau : thật thà, siêng năng, kiêu ngạo, dũng cảm
 Qua khảo sát 30 học sinh lớp 5A kết quả đạt được như sau:
 Hoàn thành
 Chưa hoàn thành
SL
TL (%)
SL
TL (%)
14
47
16
53
 Điều đáng nói ở đây là có tớ 20 em chưa biết xác định được từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa. Trong quá trình làm bài, học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ, nhiều em còn lẫn lộn khi tìm từ và vốn từ của các em rất nghèo nàn.
 Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía cả người dạy và người học. Do vậy, tôi rất cần phải trau rồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên giúp kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học. 
 2.3. Những giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
 Sơ lược một số dạng bài tập thực hành chủ yếu trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 5 là:
 - Tìm các từ ngữ nói về chủ đề.
 - Tìm từ ngữ theo nghĩa và hình thức cấu tạo đã cho.
 - Xác định nghĩa của từ và các yếu tố cấu tạo của từ.
 - Xác định nghĩa của thành ngữ, tục ngữ.
 - Phân loại từ ngữ và các yếu tố cấu tạo của từ.
 - Đặt câu với từ ngữ đã cho.
 - Lập bảng tổng kết kiến thức đã học.
 - Xác định tình huống sử dụng thành ngữ, tục ngữ.
 Giải pháp tổ chức thực hiện:
 Với đặc trưng của phân môn Luyện từ và câu cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên và việc học của học sinh trường tôi. Vì vậy, để củng cố nâng cao kiến thức và kĩ năng làm các bài tập trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 5 trong quá trình nghiên cứu kết hợp rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua quá trình giảng dạy thực tế trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau:
 1. Đọc thật kĩ đề bài.
 2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã 
cho và yếu tố phải vận dụng.
 3.Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài. 
 4. Kiểm tra đánh giá.
 Trong quá trình giảng dạy, tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn kĩ năng làm các dạng bài tập luyện từ và câu. Muốn học sinh làm bài một cách hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh. 
 Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.
 Muốn làm được việc đó, trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các chủ điểm mà phân môn Luyện từ và câu cung cấp.
 - Qua các bài tập mở rộng vốn từ, học sinh được: Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố Hán Việt; rèn luyện khả năng vốn từ theo chủ điểm; rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu, sử dụng thành ngữ, tục ngữ.
 - Thông qua các bài tập về từ (các hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm), học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về từ như xác định được nghĩa, cấu tạo và cách sử dụng các từ đó.
 - Thông qua các bài tập về từ loại: ngoài việc củng cố các từ loại đã học ở lớp 4, lên lớp 5 học sinh còn được cung cấp các kiến thức về đại từ, quan hệ từ.
 - Qua các bài tập về câu, học sinh nắm được cấu tạo của câu ghép, biết cách đặt câu ghép và biết liên kết các câu và đoạn trong văn bản. 
 Phương pháp tổ chức cho học sinh làm một số bài tập luyện từ và câu: 
 Các kiểu hình thức về kĩ năng cần học trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên.
 * Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ:
 Thông qua làm bài tập, học sinh nắm được nghĩa của từ thuộc bài mở rộng và biết đặt câu với từ đó.
 Ví dụ1: Bài : Mở rộng vốn từ : Tổ quốc 
 Bài 1: Tìm trong bài “Thư gửi các học sinh” hoặc bài “Việt Nam thân yêu” những Từ đồng nghĩa với từ Tổ quốc.
 - Bài này giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo cặp và ghi các từ ra phiếu. 
 - Đại diện một số cặp trả lời. 
 - Giáo viên cùng các cặp khác nhận xét, chốt lại. 
 - GV ghi các từ đúng lên bảng. Cho HS nhắc lại nhiều lần.
 Bài 2: Tìm thêm những từ đồng nghĩa với từ Tổ quốc 
 - Giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi làm bài theo nhóm 4.
 - Sau đó mời 3 - 4 nhóm lên bảng thi làm bài tiếp sức. 
 - Cả lớp cùng giáo viên nhận xét, bổ sung rút ra ý đúng và tuyên dương nhóm thắng. 
 - Cho học sinh đọc lại các từ vừa tìm được. 
 Bài 3:Đặt câu với một trong những từ ngữ dưới đây:
 Quê hương
 Quê mẹ
 Quê cha đất tổ.
 Nơi chôn rau cắt rốn.
 - Bước đầu, giáo viên cho học sinh trao đổi theo cặp về nghĩa của một số từ trong bài. 
 - Học sinh nối tiếp trình bày nghĩa của các từ đó. Giáo viên chốt lại. 
 - Học sinh làm bài cá nhân vào vở bài tập. 
 - Cho học sinh nối tiếp trình bày.
 - Giáo viên và học sinh khác nhận xét, chốt lại ý đúng và cho học sinh liên hệ với bản thân .
 Ví dụ 2: Bài : Mở rộng vốn từ : Nhân dân
 Bài 1: Xếp các từ ngữ trong ngoặc đơn vào nhóm thích hợp nêu dưới đây : 
 a) Công nhân
 b) Nông dân
 c) Doanh nhân
 d) Quân nhân
 e) Trí thức
 g) Học sinh
( giáo viên, đại úy, trung sĩ, thợ điện, thợ cơ khí, thợ cấy, thợ cày, học sinh tiểu học, học sinh trung học, bác sĩ, kĩ sư, tiểu thương, chủ tiệm )
 - Giáo viên giúp học sinh hiểu từ tiểu thương. 
 - Cho học sinh trao đổi theo cặp và làm bài vào vở bài tập, cho đại diện hai cặp làm vào phiếu khổ rộng và trình bày. 
 - Giáo viên và học sinh cả lớp nhận xét, chốt lại ý đúng. 
 - Cho học sinh liên hệ và kể thêm các từ ngữ khác phù hợp với các nhóm trên. Cho học sinh đọc lại nội dung bài vừa làm.
Bài 2: Các thành ngữ, tục ngữ dưới đây nói lên những phẩm chất gì của con người Việt Nam ta ?
 a) Chịu thương chịu khó.
 b) Dám nghĩ dám làm.
 c) Muôn người như một.
 d) Trọng nghĩa khinh tài ( tài : tiền của ).
 e) Uống nước nhớ nguồn.
 - Cho học sinh đọc yêu cầu bài.
 - Giáo viên giải thích thêm các em có thể dùng nhiều từ đồng nghĩa để giải thích cặn kẽ, đầy đủ nội dung một thành ngữ hoặc tục ngữ.
 - Cho học sinh trao đổi theo cặp trong bàn và ghi lại ý kiến vào phiếu.
 - Đại diện cặp học sinh trình bày ý kiến.
 - Cả lớp và giáo viên cùng nhận xét, bổ sung.
 - Giáo viên kết luận lại toàn bài. Cho học sinh đọc lại nhiều lần các câu thành ngữ, tục ngữ vừa nêu và dặn các em về học thuộc các thành ngữ, tục ngữ đó.
 Bài 3: Đọc truyện Con Rồng cháu Tiên (SGK Tiếng Việt 5 - Tập 1/trang 27, 28) trả lời các câu hỏi :
 a)Vì sao người Việt Nam ta gọi nhau là đồng bào ?
 b)Tìm từ bắt đầu bằng tiếng đồng (có nghĩa là “cùng”)
 c) Đặt câu với một trong những từ vừa tìm được.
 Ở bài này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm như sau:
 - Cho học sinh đọc nội dung bài.
 - Cả lớp đọc thầm lại truyện Con Rồng cháu Tiên, suy nghĩ, trả lời câu hỏi 3a.
 - Tổ chức cho học sinh làm vào phiếu theo nhóm 4. Đại diện nhóm trình bày, cả lớp và giáo viên nhận xét, chốt lại ý đúng. Giáo viên tuyên dương những nhóm tìm được nhiều từ.
 - Bài 3c cho học làm cá nhân vào vở bài tập. Gọi học sinh lần lượt trình bày. Giáo viên chú ý khen những em đặt câu hay về nội dung và đúng yêu cầu, đúng ngữ pháp.
 Như vậy qua các bài tập mở rộng vốn từ, học sinh được: Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố Hán Việt; rèn luyện khả năng vốn từ 
theo chủ điểm; rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu, sử dụng
thành ngữ, tục ngữ.
 * Rèn kĩ năng cấu tạo từ - dạng bài tập tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, nhiều nghĩa:
 Ví dụ 1: Tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa với mỗi từ sau : 
- bình yên 
- đoàn kết
- bạn bè 
 - mênh mông
 Đối với dạng bài tập này, giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ quá trình học sinh làm bài. Mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (bình yên, 
đoàn kết, bạn bè, mênh mông) theo nội dung sau:
bình yên
đoàn kết
bạn bè
mênh mông
Từ
đồng 
nghĩa
Từ 
trái
nghĩa
 Cùng yêu cầu của bài đã cho, học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân.
 Giáo viên cho học sinh so sánh từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa.
 Giáo viên chốt lại:
 - Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau.
 - Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau.
 Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa đều có tác dụng riêng trong từng văn cảnh. Vì vậy, giáo viên lưu ý học sinh khi dùng từ:
 + Với từ đồng nghĩa hoàn toàn, có thể thay thế cho nhau trong lời nói. Ví dụ: hổ, cọp, hùm, Còn với từ đồng nghĩa không hoàn toàn thì khi dùng những từ này, ta phải cân nhắc để lựa chọn cho đúng. 
 Ví dụ : ăn, xơi, chén, (biểu thị những thái độ, tình cảm khác nhau đối với người đối thoại hoặc điều được nói đến). mang, khiêng, vác, (biểu thị những cách thức hành động khác nhau).
 + Với từ trái nghĩa việc đặt các từ trái nghĩa bên cạnh nhau có tác dụng làm nổi bật những sự vật, sự việc, hoạt động, trạng thái, đối lập nhau.
 Ví dụ 2: (Dành cho học sinh khá, giỏi) Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa ?
 a) Chín
 - Lúa ngoài đồng đã chín vàng.
 - Tổ em có chín học sinh.
 - Nghĩ cho chín rồi hãy nói.
 b) Đường 
 - Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt.
 - Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại.
 - Ngoài đường, mọi người đã đi lại nhộn nhịp.
 c) Vạt
 - Những vạt nương màu mật
 Lúa chín ngập lòng thung.
 - Chú Tư lấy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre.
 - Nhũng người Giáy, người Dao
 Đi tìm măng, hái nấm
 Vạt áo chàm thấp thoáng
 Nhuộm xanh cả nắng chiều.
 ( Nguyễn Đình Ánh)
 Bài này, tôi cho học sinh trao đổi theo cặp và trình bày. Sau đó học sinh khác và giáo viên nhận xét, chốt lại ý đúng.
 - Giáo viên lưu ý học sinh, khi phân biệt từ nhiếu nghĩa với từ đồng âm thì từ nhiều nghĩa thường là cùng một từ loại (cùng danh từ, cùng tính từ hay cùng động từ). Ví dụ: từ chín ở ví dụ trên thì từ chín ở câu 1, câu 3 là từ nhiều nghĩa cùng từ loại là tính từ, cả hai từ đó đồng nghĩa với từ chín là danh từ ở câu 2 ; còn từ đồng âm thường khác nhau về từ loại. Ví dụ: từ vạt ở ý 1 câu c trong ví dụ trên và từ vạt ở ý 3 là từ nhiều nghĩa, cả 2 từ vạt đều là danh từ đồng nghĩa với từ vạt ở ý 2 là động từ.
 Tóm lại, thông qua các bài tập về từ (các hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm), học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về từ như xác định được nghĩa, cấu tạo và cách sử dụng các từ đó.
 Luyện tập các bài có dạng về đại từ, quan hệ từ:
 Ở lớp 4, học sinh đã được học về danh từ, tính từ và động từ. Lên lớp 5, học tiếp tục được học bổ sung tiếp về từ loại là đại từ và quan hệ từ.
 Ví dụ 1: Các từ in đậm trong đoạn thơ sau được dùng để chỉ ai ? Những từ ngữ đó được viết hoa nhằm biểu lộ điều gì ?
Mình về với Bác đường xuôi
 Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
 Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường !
 Nhớ Người những sáng tinh sương
 Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
 Nhớ chân Người bước lên đèo
 Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.
 (Tố Hữu)
 Bài này, tôi cho học sinh trao đổi theo cặp và trả lời miệng : Các từ in đậm trong đoạn thơ được dùng để chỉ Bác Hồ, đồng thời tôi sẽ hỏi thêm: các từ in đậm đó thuộc từ loại gì ? ( là đại từ ). Đại từ được thay thế cho từ loại gì ? (thay thế cho danh từ Bác Hồ ).Thông qua hai câu hỏi phụ đó, giúp học sinh khắc sâu thêm về tác dụng của đại từ trong phần Ghi nhớ ; những từ đó được viết hoa nhằm biểu lộ thái độ tôn kính Bác.
 Ví dụ 2: Dùng đại từ ở những chỗ thích hợp để thay thế cho từ bị lặp lại nhiều
lần trong mẩu chuyện sau :
Con chuột tham lam
 Chuột ta gặp vách nhà. Một cái khe hở hiện ra. Chuột chui qua khe và tìm được rất nhiều thức ăn. Là một con chuột tham lam nên chuột ăn quá nhiều, nhiều đến mức bụng chuột phình to ra. Đến sáng, chuột tìm đường trở về ổ, nhưng bụng to quá, chuột không sao lách qua khe hở được.
 ( Theo Lép Tôn- xtôi)
 Với dạng bài này, tôi sẽ hướng dẫn học sinh l

Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo