Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Đề tài Một vài biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4 ở trường TH Nguyễn Viết Xuân

Đăng ngày 14 January, 2023 bởi admin

Bạn đang xem tài liệu “Đề tài Một vài biện pháp làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4 ở trường TH Nguyễn Viết Xuân”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

ốt...
 Trong trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân mỗi năm có tới hơn 10 thầy cô được giao nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm lớp. Cũng có thầy cô nhiều năm liền đều được làm công tác chủ nhiệm của một khối lớp nhưng cũng có thầy cô mỗi năm lại đảm nhiệm công tác chủ nhiệm của một khối lớp khác. Nhưng dù cho thầy cô nhận nhiệm vụ ở hình thức nào đi chăng nữa thì cũng có những thuận lợi và cũng không ít những khó khăn. Đối với bản thân tôi có nhiều năm liền được nhà trường giao nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm lớp 4, thì cũng có một phần thuận lợi là bản thân đã hiểu sâu về tâm lý lứa tuổi của học sinh khối lớp 4, mặc dù thế nhưng đối tượng học sinh mỗi năm một khác, hoàn cảnh gia đình của từng em khác nhau, chất lượng mũi nhọn cũng như đại trà của lớp chủ nhiệm từng năm cũng khác nhau.
 Một thực tế cho thấy có thầy cô có thâm niên nhiều năm liền làm công tác chủ nhiệm lớp nhưng cũng chẳng mấy thuận lợi trong việc làm công tác chủ nhiệm lớp mà đa phần thầy cô cứ chú trọng vào việc dạy cho học sinh toán, tiếng Việt, mà quên đi ở lứa tuổi tiểu học các em còn nhỏ, tính hiếu động nên các em rất thích vừa học vừa chơi; “Chơi mà học; học mà chơi”. Ngoài những khó khăn trên thì lứa tuổi các em còn nhỏ nên chưa xác định rõ nhiệm vụ học tập dẫn đến chưa tích cực và tự giác học bài, còn ham chơi các trò chơi vô bổ điện tử làm ảnh hưởng đến việc học tập.
 Tập thể lớp 4B năm học 2015-2016 có sĩ số là 29 học sinh, trong đó đa số học sinh là con em gia đình làm nông nghiệp, có 1 em bị khuyết tật; 4em có hoàn cảnh gia đình khó khăn ( hộ nghèo, bố mất ); 2 em bố mẹ ly dị ở với ông bà nên thiếu sự quan tâm, chăm sóc và tình thương yêu của cha mẹ; còn một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con cái, chưa tạo điều kiện cho con em tham gia các phong trào sợ con em mệt vất vả dẫn đến một số em còn rụt rè, thiếu tự tin trong giao tiếp, bày tỏ ý kiến còn ấp úng, diễn đạt câu từ lủng củng không rõ ý, thiếu nội dung. Điều này cũng là một yếu tố khó khăn đối với giáo viên chủ nhiệm. 
 3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a.Mục tiêu của giải pháp 
 Giúp giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp nói chung, giáo viên chủ nhiệm lớp 4 nói riêng có thêm một số kỹ năng trong dạy học cũng như trong quản lý học sinh lớp mình chủ nhiệm nhằm đem lại hiệu quả 2 mặt giáo dục tốt nhất; góp phần nâng cao chất lượng toàn diện trong nhà trường.
 Thông qua việc áp dụng các giải pháp này nhằm xậy dựng được một tập thể lớp đoàn kết, biết yêu thương, chia sẻ những buồn, vui trong cuộc sống cùng động viên nhau vươn lên trong học tập cũng như trong sinh hoạt hàng ngày; giúp các em mạnh dạn, tự tin, tự lập, biết làm việc hợp tác đem lại hiệu quả cao trong mọi công việc. Học sinh lớp 4B của trường hứng thú hơn trong giờ học, các em nhanh nhẹn, mạnh dạn tự tin có kỹ năng làm việc hợp tác trong nhóm, phát huy năng lực sở trường; đặc biệt nâng cao chất lượng môn toán, tiếng Việt, thúc đẩy phong trào mũi nhọn tạo hứng thú học sinh tham gia ôn luyện toán qua mạng; tạo môi trường học tập nhân ái đối với học sinh khuyết tật góp phần nâng cao chất lượng đại trà. 
 b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Để có chất lượng tập thể lớp tốt, người giáo viên chủ nhiệm cần phải làm tốt các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu nắm vững tình hình học sinh của lớp chủ nhiệm.
- Xây dựng ban tự quản của lớp.
- Thiết lập các mối quan hệ trong tập thể.
- Tổ chức các hoạt động đa dạng cho tập thể học sinh(trong đó có các hoạt động về học tập, các hoạt động về Đội thiếu niên,)
- Tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao.
- Tổ chức các hoạt động giáo dục.
- Xây dựng quản lý hồ sơ quản lý lớp chủ nhiệm.
 Trong công tác chủ nhiệm lớp có hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ việc làm cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Trong khuôn khổ đề tài này tôi chú trọng vào 3 biện pháp sẽ trình bày dưới đây. Vì đối với học sinh lớp 4B của tôi các em đã được làm quen với môi trường ở tiểu học 3 năm rồi nên mọi nền nếp, nội quy trường lớp các em đã hiểu và thực hiện tương đối tốt. Vả lại công tác làm hồ sơ sổ sách quản lý lớp là việc làm thường xuyên của mọi thầy cô (theo mẫu); việc này đối với tôi quá nhuần nhuyễn - một cô giáo có thâm niên làm công tác chủ nhiệm hơn 10 năm rồi. 
 * Nội dung 1: Thiết lập các mối quan hệ trong tập thể lớp. 
Như tôi đã trình bày ở trên, năm học 2015 - 2016 lớp 4B do tôi chủ nhiệm có một em học sinh khuyết tật đó là em Nguyễn Như Quỳnh, em Quỳnh khi lọt lòng mẹ thì mắc phải bệnh liệt hệ thống dây thần kinh bên phải nên tay phải em không làm được gì, tay trái em cầm bút cũng rất khó khăn do cơ tay yếu và thị giác của em kém do mắc bệnh( mắt lé ). Bên cạnh đó, em cũng gặp vấn đề về phát âm nên đọc hay nói thì các bạn rất khó để nghe được. Mặc dù Quỳnh lớn hơn các bạn cùng lớp đến 2 tuổi nhưng lúc nào em cũng phải quàng chiếc khăn ở cổ vì nước giãi rất hay chảy. Gia đình em lại vô cùng khó khăn, bố em mất khi đi làm phụ hồ để kiếm tiền cho em ra Hà Nội chữa trị. Thế là ước mơ của em được trở thành người lành lặn như bạn bè đành khép lại. Vì từ đây mẹ em một nách phải nuôi hai đứa con, đất đai nương rẫy không có, mọi chi tiêu trong gia đình là tiền mẹ em bán hàng lặt vặt và may vá quần áo cho hàng xóm láng giềng. Để lo miếng ăn cho ba mẹ con hàng ngày còn khó thì lấy đâu ra tiền cho em chữa trị. Cũng chính vì lẽ đó mà khi được phân công chủ nhiệm lớp tôi xác định được trách nhiệm của mình, trong đầu tôi đặt ra bao nhiêu câu hỏi làm gì để em có thể học tập những kiến thức đơn giản? Làm thế nào để em không cảm thấy cô đơn khi đến lớp? Và làm sao để gắn kết được em với các thành viên trong lớp? Đó là những câu hỏi mà bất kỳ người giáo viên có tâm huyết nào cũng phải trăn trở. Nên việc đầu tiên khi được phân công chủ nhiệm lớp tôi đã gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm cũ để trao đổi và nắm tình hình. Sau đó, tôi lên kế hoạch giáo dục cụ thể cho năm; kỳ, tháng. Hàng tháng tôi xem xét kết quả học tập của học sinh và điều chỉnh kế hoạch tháng sau cho phù hợp.
 Để em Quỳnh tự tin vui chơi cùng các bạn, tôi thường nhắc cả lớp rủ bạn cùng chơi, cùng tham gia các hoạt động của lớp. Em nào có tinh thần tương thân tương ái giúp bạn vượt khó sẽ được tuyên dương trước lớp, trước cờ. Trong các hoạt động vui chơi của lớp, tôi luôn hướng các em vào các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh để các em tự tin hơn, hòa đồng và cùng có trách nhiệm trong công việc.
 Trong việc lĩnh hội kiến thức, Quỳnh tiếp thu chậm. Chính vì vậy tôi phải dạy em những kiến thức cơ bản nhất, dễ nhất của môn toán và Tiếng việt. Không phải giảng chung cùng với lớp mà sau khi giảng cho lớp hiểu và làm bài thì tôi hướng dẫn cụ thể tỉ mỉ, chỉ cho em từng li từng tí để em hiểu và vận dụng làm bài tập. Tôi thường xuyên gọi em trả lời các câu hỏi dễ để em tự tin trước tập thể. Làm tốt khâu nhận xét bài, đánh giá và tuyên dương sự tiến bộ của em, trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập cũng như sự phát triển về thể chất, tâm lý của em để có biện pháp giáo dục tốt nhất. 
 Bên cạnh đó, tôi biết mọi hoạt động, thái độ cử chỉ của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn nở nụ cười, chú ý đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trò noi theo. Tôi luôn động viên chia sẻ cùng các em khi học bài cũng như khi vui chơi. Ân cần giúp đỡ, hướng dẫn học sinh hoàn thành bài tập, môn học. Trò chuyện, hỏi thăm tình hình học tập, gia đình của HS tạo sự gần gũi vui vẻ cùng các em. Tạo cho các em môi trường học tập thân thiện, đoàn kết, yêu thương luôn quan tâm, gắn bó với nhau. Hàng ngày, tôi luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời và chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. 
 Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn hướng các em vào các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau:
 Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp gặp gỡ trao đổi riêng với học sinh phân tích đúng, sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn, sau đó giảng hòa. Khi bạn bè ốm đau hoặc gia đình có chuyện buồn nếu bạn ở xa thì cô và ban cán sự lớp đến thăm hỏi và động viên giúp đỡ như bày cách học, cho bạn mượn vở chép bài. Những bạn ở gần thì tổ chức vào một buổi chiều được nghỉ học. Số tiền hoặc quà thăm được quyên góp hoặc trích ra từ quỹ của lớp.
 Làm tốt các tiết sinh hoạt lớp. Tôi khuyến khích học sinh tự viết ra những điều tốt, chưa tốt của cán sự lớp và học sinh trong lớp. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi tuyên dương ngay trước lớp. Còn những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, động viên các em sửa chữa.
 Tôi luôn quan tâm động viên và giúp đỡ các em học tập và sinh hoạt, giúp đỡ các em về vật chất. Kêu gọi phụ huynh và học sinh trong lớp giúp đỡ : ủng hộ sách vở, quần áo và dụng cụ học tập..
 Bên cạnh đó tôi luôn tận tình thăm hỏi, nắm tình hình để động viên cũng như có các biện pháp hỗ trợ và giúp đỡ. 
 Thường xuyên xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, các hoạt động khác. Để làm được điều đó người giáo viên chủ nhiệm phải luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh.
 Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở thích của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi, chơi mà học”, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em. 
 Trong các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần thì hoạt động sau cùng là vui chơi, giúp các em bớt căng thẳng, hòa mình trong trò chơi. Và cũng chính các tiết sinh hoạt lớp này tôi mời một, hai thầy cô như cô tổng phụ trách hoặc ( cô dạy mĩ thuật, cô dạy hát nhạc, thầy, cô trong Ban Giám hiệu trường..) đến dự với lớp. Việc làm này không chỉ giúp các em ngày tự tin hơn, đỡ lo sợ tâm lý khi có giáo viên tới lớp, tạo tâm lý tự tin. Chính vì vậy mà trong các tiết sinh hoạt lớp, học sinh nào cũng có tâm lý chuẩn bị tốt trong tiết sinh hoạt để được cô khen. Kỹ năng giao tiếp ứng xử của các em ngày một chuyển biến tốt.
 * Nội dung 2: Tổ chức các hoạt động đa dạng cho tập thể học sinh (trong đó có các hoạt động về học tập, các hoạt động về Đội thiếu niên.
 Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau các em lại chung nhóm với bạn khác. Có nhóm học sinh tuy ngồi chung nhóm nhưng chưa hợp tác làm việc dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ. Trước tình trạng này tôi ân cần dành nhiều thời gian hơn cho nhóm này để gợi ý, phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm. Hết thời gian thảo luận đề nghị tổ trình bày ý kiến, các nhóm khác bổ sung. Tôi khen ngợi kịp thời sự cố gắng của tổ, của từng thành viên, đề nghị nhóm cố gắng phát huy. 
 Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Rung chuông vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An toàn giao thông, làm báo tường, vẽ tranh chào mừng các ngày lễ lớn.
 Hướng dẫn các em trang trí góc học tập và làm một số đồ chơi đơn giản để 
trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè. Dựa trên hướng dẫn của tôi, các em 
cùng làm, cùng giúp đỡ nhau làm việc. Chẳng hạn như cho các em tự làm thiệp chúc mừng bạn trong lớp nhân ngày sinh nhật, bạn trai làm thiệp chúc mừng bạn gái nhân ngày 8-3, thăm các bạn bị ốm, viết nhật kí lớp.
 Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi cho cả lớp. Động viên các em tham gia tất cả các phong trào của trường, của đội, nhất là các phong trào đòi hỏi sự tham gia tập thể. Nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo
 Khuyến khích học sinh năng khiếu tự học và tìm tòi giải các bài toán, làm các bài văn khó. Những học sinh còn hạn chế kiến thức vẫn phải cố gắng tìm tòi cách làm bài mới. Khi không hiểu và làm bài có thể lên lớp nhờ bạn giảng dùm hoặc mạnh dạn gặp cô để cô hướng dẫn làm bài.
 Muốn làm tốt bài tập trước hết các em phải nhớ lý thuyết, nhớ các công thức tính, phân biệt các dạng bài, cách chia. Khi làm bài các em phải đọc kỹ đề, suy nghĩ câu từ, cách giải, vận dụng lý thuyết đã học để làm. Kiên trì làm không nản lòng khi gặp bài tập nâng cao dần độ khó.
 Để buổi học ngày mai học tốt, hiểu bài thì các em phải xem bài trước, đọc bài ít nhất 2-3 lần và tự trả lời câu hỏi. Riêng với các môn Toán, Tiếng Việt phải nghiên cứu dạng bài và làm bài vào vở nháp. 	 
* Nội dung 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục.
 Trong công tác chủ nhiệm lớp, nhiệm vụ quan trọng là nâng cao chất lượng đại trà lớp thì công tác phụ đạo học sinh tiếp thu kiến thức chậm là rất quan trọng và đòi hỏi thời gian tương đối dài lâu, nhưng để xây dựng một lớp điển hình với những phong trào mũi nhọn và tạo nguồn dự thi các phong trào do trường, phòng giáo dục tổ chức thì đòi hỏi việc đầu tư bồi dưỡng không kém phần khó khăn.
 a.Nâng cao chất lượng đại trà. 
 Nâng cao chất lượng đại trà đó là công việc đòi hỏi mỗi giáo viên chủ nhiệm phải trăn trỏ và tìm tòi những biện phấp tối ưu nhất.
 Ngay từ đầu năm học với các bài kiểm tra khảo sát dể phân loại đối tượng học sinh để xây dựng kế hoạch ôn luyện. Xác định môn học hạn chế của các học sinh. Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý, phân công những em khá, giỏi giúp đỡ kịp thời. Tôi dành nhiều thời gian cho việc ôn luyện kiến thức từ đơn giản đến phức tạp, kết hợp củng cố lí thuyết với thực hành, ôn luyện nhuần nhuyễn dạng bài trước khi chuyển sang dạng khác, sau một hoặc hai tuần thường có bài kiểm tra tổng hợp các dạng bài để xác định khả năng ghi nhớ của học sinh, điều chỉnh bổ sung phương pháp dạy của giáo viên. 
 Làm tốt công tác ôn bài, kiểm tra đầu giờ, phát huy ban cán sự lớp, các tổ trưởng các tổ kiểm tra hướng dẫn những học sinh tiếp thu kiến thức chậm và có báo cáo về giáo viên qua mỗi buổi sinh hoạt đầu giờ. Chính làm tốt công tác sinh hoạt đầu giờ nên tôi dành nhiều thời gian hơn cho nhóm đối tượng học sinh tiếp thu chậm kiến thức (gọi lên bảng làm bài, kiểm tra, hướng dẫn tỉ mỉ ..) 
 Đối với các em tiếp thu chậm kiến thức tôi không khắt khe đòi hỏi các em làm những bài tập yêu cầu chung cả lớp cùng làm, mà các bài tập thường vừa sức các em làm, động viên khích lệ các em kịp thời để các em có niềm tin trong học tập. 
 Thường xuyên phụ đạo kiến thức vào các buổi học và vào thứ bảy hàng tuần. Ôn tập và củng cố kiến thức cũ cho các em kết hợp vận dụng làm các bài tập.
 Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh học sinh, các giáo viên bộ môn và các đoàn thể trong và ngoài nhà trường trong việc giáo dục, rèn luyện các em.
 b.Xây dựng lớp điển hình với phong trào mũi nhọn.
 Là một giáo viên lâu năm dạy lớp 4, được nhà trường tin tưởng giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh năng khiếu (học sinh giỏi) dự thi cấp huyện. Bản thân luôn xác định được những công việc quan trọng dành cho lớp mình giảng dạy. Để làm tốt công tác này thì tôi thường làm các công việc sau:
 Lựa chọn các đối tượng học sinh năng khiếu thông qua việc học, tiếp thu kiến thức, qua các bài kiểm tra chung của lớp, các bài kiểm tra chọn đối tượng năng khiếu.
 Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đảm bảo tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của từng học sinh. Giúp các em tổng hợp các dạng bài, hướng dẫn các phương pháp giải, những câu văn, bài văn hay, biện pháp nghệ thuật như so sánh nhân hóa.. 
 Khuyến khích học sinh tham khảo cách giải các bài toán khó, học tập những bài văn hay trên mạng hay trong sách. Trong các biện pháp nêu trên tôi đặc biệt chú trọng đến các nội dung sau:
 Xây dựng cách học tập theo nhóm để các em phát huy hết năng lực sở trường về môn toán, môn tiếng Việt cũng như nâng cao kỹ năng giao tiếp, đánh giá nhận xét các bạn trong nhóm; góp phần nuôi dưỡng những hạt nhân trong phong trào mũi nhọn ( thi giải toán qua mạng ) Các bài toán về số và chữ số, các bài toán về dãy số, các bài toán về điền số và phép tính, các bài toán về dấu hiệu chia hết, các bài toán về phân số và các bài toán về tính tuổi, các bài toán về suy luận lô gic, các bài toán có nội dung hình học, các bài toán vui và toán cổ ở tiểu học.
 Song song với các chuyên đề, cần ôn tập và rèn kỹ năng nhận dạng các dạng toán, lựa chọn các phương pháp giải toán. Các phương pháp giải toán mà học sinh cần thành thạo là: Phương pháp dùng sơ đồ đoạn thẳng, phương pháp rút về đơn vị, phương pháp dùng tỉ số, phương pháp dùng giả thiết tạm, phương pháp quy ước về đơn vị, phương pháp khử và phương pháp thế 
 Dạy phần lý thuyết cơ bản song rồi tôi cho các em thực hành trên máy, mỗi em tự lập cho mình ít nhất từ 3 ních trở lên. Các em luyện tập thường xuyên trên máy tính của trường vào cuối buổi học thứ hai hoặc vào thứ bảy, những em nào có 
máy tính thì luyện tập luôn ở nhà.
 Đối với môn Tiếng Việt, học sinh phải nắm chắc cách tả từng thể loại ( tả đồ vật, cây cối, con vật ). Dạy cho các em cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, biện pháp so sánh, nhân hóa, viết câu mở đoạn. Trong các tiết dạy môn Tập đọc, Luyện từ các em hiểu từ ngữ và trình bày cái hay, cái đẹp trong các câu văn, câu thơ.
 Hướng cho các em đọc văn mẫu, chỉ ra câu văn, đoạn văn hay, cách sử dụng các giác quan, biện pháp so sánh hoặc nhân hóa được tả trong bài. Vận dụng viết câu văn có hình ảnh gợi tả rồi đến đoạn văn. Cách viết mở bài kiểu gián tiếp, kết bài mở rộng và sau cùng hoàn thiện bài văn với 3 phần cụ thể.
 Các em viết và đọc trước lớp để cả lớp cùng đánh giá và học tập cách viết. Khuyến khích các em làm bài theo nhóm để các em hỗ trợ kỹ năng viết bài cho nhau. Giáo viên nhận xét, chỉ ra cho các em cái làm được, cái chưa làm được để các em rút kinh nghiệm viết bài tốt hơn.
 c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
 Các biện pháp nêu trên đầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thiết lập các mối quan hệ trong tập thể và tổ chức các hoạt động đa dạng cho tập thể học sinh nó bổ trợ cho biện pháp tổ chức các hoạt động giáo dục.
 d. Kết quả khảo nghiệm của vấn đề nghiên cứu.
Qua những  năm đã làm công tác chủ nhiệm lớp 4 và bằng việc áp dụng kinh nghiệm làm chủ nhiệm của mình, bản thân đã có được những thành công đáng khích lệ cả về phía cá nhân tôi và cả lớp tôi chủ nhiệm. 
 Với những biện pháp tôi đã làm không có gì là to tát cả nhưng lại rất đỗi khả quan, tôi thấy kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm tôi rất vui mừng, tình cảm thầy- trò, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện. 
 Trong 2 năm học qua, lớp tôi có tỉ lệ học sinh giỏi luôn dẫn đầu trong khối và trong toàn trường. Tập thể lớp luôn đạt xuất sắc, không có học sinh bị trách phạt trước toàn trường. Học sinh đều tích cực tham gia các phong trào của lớp, của trường. Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp và đứng trước tập thể. Cụ thể kết quả như sau :
* Năm học 2014-2015: 
 + Duy trì sĩ số 29/29 đạt 100/%.
 + Hoàn thành chương trình lớp học đạt 100 %
 + Đạt 6 học sinh giỏi cấp trường, 2 học sinh đạt giải nhì và 4 học sinh công nhận học sinh giỏi huyện ( toán và Tiếng Việt) 
 + Đạt 3 học sinh giải toán qua mạng cấp huyện dự thi cấp tỉnh.
 + Lớp cuối năm đạt loại xuất sắc, hoàn thành xuất sắc phong trào đội.
 * Năm học 2015-2016: 
 + Duy trì sĩ số : 30/30, đạt 100/%.
 + Hoàn thành chương trình lớp học đạt 100 %
 + Em Nguyễn Thị Quỳnh (HS khuyết tật ) hoàn thành chương trình lớp học được lên lớp 5
 + Đạt 6 học sinh giỏi cấp trường, 1 học sinh đạt giải nhì và 2 học sinh đạt giải 3; 3 em được công nhận học sinh giỏi huyện (toán và tiếng Việt ) 
 III.Kết luận, kiến nghị
 1. Kết luận 
Để quản lý và giáo dục học sinh người giáo viên chủ nhiệm phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, giáo viên chủ nhiệm là người quản lý giáo dục học sinh toàn diện trong một lớp; là người ch

Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo