Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở Trường THCS

Đăng ngày 16 January, 2023 bởi admin

Bạn đang xem tài liệu “Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở Trường THCS”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

S. 
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu :
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng và thử nghiệm ở học sinh lớp chủ nhiệm .
Thực trạng dạy học lớp 9 Trường THCS .
Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh về hai mặt giáo dục trong công tác quản lý chủ nhiệm.
2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng về kết quả hai mặt giáo dục của học sinh và thử nghiệm các biện pháp đề xuất ở Trường THCS .
3. Phương pháp nghiên cứu:
Nhóm các phương pháp nghiên cứu luận.
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Một số phương pháp nghiên cứu khác.
VI. Kế hoạch thực hiện:
Thời gian : Bắt đầu từ 01/9/2015 đến 27/2/2016
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Nghị quyết Trung ương 2 ngày 14 tháng 9 năm 2005, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định một số vấn đề chủ yếu: "Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng cường kinh tế nhanh và bền vững"
Bộ Chính trị cũng đã đưa ra trong Kết luận số 242-TB/TƯ ngày 15/4/2009 là phấn đấu đến năm 2020 nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện nhiệm vụ trên Bộ Chính trị đã đưa ra nhiệm vụ cho ngành giáo dục là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên; mở rộng qui mô giáo dục hợp lý; đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với giáo dục - đào tạo; xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng nhu cầu về chất lượng; tiếp tục đổi mới chương trình, tạo chuyển biến mạnh mẽ về phương pháp giáo dục; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục; tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo”. Do đó công tác giáo dục được Bộ Chính trị và toàn dân coi đó là một sứ mạng của lịch sử. Nếu không có giáo dục thì con người sẽ tụt hậu, đất nước kém phát triển, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thiếu ổn định.
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội, để thực hiện Nghị quyết Trung ương 2, trong Kết luận số 242-TB/TƯ ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị, đồng thời quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vì một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, ngành giáo dục đặt ra cho hệ thống giáo dục việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục là một yêu cầu cấp thiết cho những nhà quản lý cũng như mỗi người giáo viên. Chất lượng giảng dạy và giáo dục của nhà trường, phụ thuộc vào giờ lên lớp của từng cá nhân của mỗi giáo viên và công tác quản lý của Lãnh đạo nhà trường và giáo viên chủ nhiệm. Do đó công tác quản lý lớp chủ nhiệm phải được kiểm tra thường xuyên, kịp thời nhằm nắm bắt được tình hình của lớp về học tập, tâm sinh lý của học sinh và từ đó đưa ra những biện pháp hữu hiệu, giúp các em lĩnh hội được tri thức, tiến bộ trong học tập, chuẩn mực ngôn phong, tác phong cho các em, để các em có đủ bản lĩnh vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu của xã hội đặt ra “vừa hồng, vừa chuyên”, nhằm phát triển đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
II. Thực trạng 
1. Thuận lợi:
Được sự hỗ trợ của lãnh đạo nhà trường, tổ chuyên môn, các đồng nghiệp vững về chuyên môn, đạo đức tác phong chuẩn mực, luôn năng nổ nhiệt tình sẵn sàng giúp đỡ khi tôi gặp khó khăn.
Bản thân có sức khỏe tốt, có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác, nắm được tình hình lớp ngay từ đầu năm học.
Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ đảm bảo tốt cho việc thực hiện công tác giáo dục.
Các bậc phụ huynh học sinh của lớp chủ nhiệm ngày càng có trách nhiệm hơn trong công tác giáo dục, quản lý chặt chẽ trong học tập cũng như sinh hoạt hàng ngày của các em, hỗ trợ giúp đỡ nhà trường về mọi mặt để bộ mặt giáo dục của nhà trường ngày càng đi lên. 
Đa số học sinh ngoan hiền, chú ý đến việc học tập, biết sửa đổi khi phạm sai lầm, chấp hành tốt nội quy trường, lớp.
2. Khó khăn:
Một số em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cha mẹ phải đi làm thuê, làm mướn suốt ngày nên chưa quan tâm đến việc học của các em.Môi trường xung quanh có rất nhiều tụ điểm vui chơi giải trí, nên một số học sinh đã bị cuốn hút vào nơi đó và lãng quên việc học của mình. Hơn nữa, ở lứa tuổi này tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích khẳng định mình .trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều. Phụ huynh học sinh thiếu thông tin về kiến thức xã hội, kiến thức nuôi dạy con, chưa tự giác, chủ động phối hợp với nhà trường hoặc giáo viên chủ nhiệm trong việc quản lý con em mình, chỉ khi nào mời thì các bậc phụ huynh mới đến, đôi khi không đến.
Một số học sinh ngại lao động, thường xuyên đi học trễ, ăn mặc có lúc chưa đúng theo nội qui nhà trường, chưa chú ý lắng nghe thầy cô giảng bài, nghỉ học không lý do thỉnh thoảng chửi thề, nói tục, đánh nhau
Kết quả học tập ở cuối năm học trước của lớp còn thấp.
Một số giáo viên trong Hội đồng sự phạm còn yếu tay nghề hoặc có nhiều kinh nghiệm nhưng tiết dạy chưa chuẩn bị chu đáo, chỉ mang tính hình thức, bài dạy chưa đào sâu kiến thức cho học sinh, quản lý học sinh trong tiết dạy còn lỏng lẻo, chưa nghiêm túc nên dẫn đến các em chán học hay bỏ tiết.
Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có một khóa đào tạo chính thức nào cho GVCN. Bản thân làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm và học hỏi trao đổi với đồng nghiệp trong nhà trường. 
Tóm lại, trước những thực trạng trên thì bản thân là một giáo viên chủ nhiệm tôi luôn trăn trở, suy nghĩ với phương pháp quản lý của mình như thế nào để lớp chủ nhiệm ngày càng tiến bộ hơn, lớp luôn đạt là Chi đội vững mạnh xuất sắc, học sinh của lớp đoàn kết, giúp đỡ nhau trong học tập, giảm đi những hành vi sai lệch vi phạm nội qui trường, lớp, bản thân các em luôn thấy an toàn và an tâm trong học tập, kết quả học tập ngày càng tiến bộ? Với những trăn trở đó tôi đã đưa ra nhiều giải pháp để hoàn thành được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình đối với lãnh đạo ngành cũng như lương tâm của một nhà giáo, một sứ mệnh mà xã hội đã giao cho.
III. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
1. Xây dựng hình tượng, rèn luyện nhân cách của giáo viên:
Lao động của người giáo viên, lao động sư phạm là loại hình lao động đặc biệt; đối tượng lao động của người giáo viên là con người, là thế hệ trẻ đang lớn lên cùng với nhân cách của nó. Đối tượng này không phải là vật vô tri, vô giác như tấm vải của người thợ may, viên gạch của người thợ hồ hay khúc gỗ của người thợ mộc... mà là một con người rất nhạy cảm với những tác động của môi trường bên ngoài theo hướng tích cực và cả hướng ngược lại. Như vậy, người giáo viên phải nâng cao toàn bộ phẩm chất của người giáo viên, tạo được hình tượng tốt đối với học sinh là một yêu cầu tất yếu khách quan của xã hội như Mác đã nói: "Bản thân nhà giáo dục cũng phải được giáo dục". 
Một là, người giáo viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức tác phong chuẩn mực, phải là người gương mẫu đi đầu trong công việc, lời nói phải đi đôi với việc làm, phải có sức khỏe tốt, năng nổ nhiệt tình. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, là một người có ích cho xã hội. Nói không với cái xấu, tội ác, thù hằn, hiềm khích, ghen tị đó là sự nêu gương để cho học sinh noi theo
Hai là, luôn luôn tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, làm sao để trở thành một kho tàng kiến thức để cho học sinh tìm hiểu và khai thác, chính điều này sẽ giúp giáo viên tiếp cận học sinh dễ dàng hơn và tìm hiểu tâm lý cũng như hoàn cảnh học sinh thuận lợi hơn. 
Ba là, giáo viên chủ nhiệm phải có đức, điềm tĩnh, biết kiềm chế và kiên nhẫn, mới có thể lựa chọn dùng các phương pháp giáo dục đúng đắn, đừng thể hiện sự bực tức, có hành vi bạo lực là điều quan trọng, vì bạo lực sẽ đẻ ra bạo lực. Học sinh sẽ dùng hành vi đó để hành xử tiếp với người khác, hoặc ngay chính người giáo viên chủ nhiệm sẽ bị học sinh hành xử lại như thế.
Bốn là, sẵn lòng giúp đỡ các em khi có hoàn cảnh khó khăn. Sống với một trái tim tràn ngập tình yêu thương sẽ giúp cho học sinh cảm thấy được là có người luôn quan tâm đến các em, lo lắng cho các em, là một hậu phương tinh thần vững chắc để cho các em yêu đời và lạc quan hơn, có như thế sẽ là một động lực thúc đẩy các em học tập tốt hơn. 
Tóm lại, học sinh trong độ tuổi này phát triển, tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện, trong đó, có những học sinh do hoàn cảnh xuất thân, cá tính đặc biệt, khó giáo dục nên gia đình phải hỗ trợ rất nhiều, giáo viên phải hết sức kiên nhẫn. Giáo viên phải là tấm gương tốt để các em thấy hành vi không đúng của mình, từ đó các em sẽ tự điều chỉnh và xóa dần đi những lệch lạc của các em, các em sẽ chú tâm đến việc học nhiều hơn.
2. Tạo niềm tin đối với học sinh:
Ở lứa tuổi này các em thích làm công tác xã hội:
Có sức lực, đã hiểu biết nhiều, muốn làm được những công việc được mọi người biết đến, nhất là những công việc cùng làm với người lớn. 
Các em cho rằng công tác xã hội là việc làm của người lớn và có ý nghĩa lớn lao. Do đó, được làm các công việc xã hội là thể hiện mình đã là người lớn và muốn được thừa nhận mình là người lớn và luôn đòi hỏi sự công bằng trong công việc, trong cách đối xử, do đó khi tiếp xúc với các em cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị, sự công bằng trong: Cách cho điểm, đánh giá học lực, hạnh kiểm, xử lý những mâu thuẫn của học sinh với học sinh, mâu thuẫn giữa học sinh với giáo viên
Như vậy, công bằng, tế nhị, khéo léo sẽ tạo được niềm tin đối với các em, các em luôn tin tưởng đồng thuận theo định hướng, kế hoạch phương pháp của giáo viên. Từ đó, sẽ đưa phong trào của lớp tiến bộ, kết quả học tập của các em cao hơn, lớp đoàn kết, hăng hái tham gia các phong trào của nhà trường... 
3. Tiếp cận và tìm hiểu hoàn cảnh:
Khi đã tạo được niềm tin, hình tượng tốt đối với học sinh thì việc tiếp cận đối với học sinh rất dễ dàng. Với thuận lợi đó giáo viên tìm hiểu thêm được tâm tư, nguyện vọng của các em, biết các em cần gi? Muốn gì? Và làm gì? Tuy nhiên, trong giao tiếp sự ân cần và tế nhị của giáo viên sẽ không làm bộc phát được những bản chất xấu của các em, do đó để rõ hơn bản chất của các em giáo viên phải tiếp cận thêm phụ huynh học sinh và những người xung quanh các em, từ đó mới đưa ra những phương pháp hợp lý để giáo dục các em. 
Mục tiêu của phương pháp đặt ra trong năm học là tiếp cận những học sinh, gia đình học sinh yếu kém, học sinh cá biệt của lớp sau đó sẽ tiếp cận những đối tượng còn lại sao cho đến nửa đầu học kỳ II thì tất cả gia đình học sinh đều tiếp xúc đầy đủ.
	4. Tổ chức bộ máy quản lý chặt chẽ, có khoa học:
Trong công tác quản lý lớp, việc phân công học sinh làm ban cán sự lớp sẽ rèn luyện cho các em có khả năng lãnh đạo, mạnh dạn, linh hoạt, tự tin, rèn luyện kỹ năng sống cho các em, đồng thời đào tạo được một con người có bản lĩnh. 
Ngoài ra việc phân công học sinh làm ban cán sự lớp còn giúp cho giáo viên chủ nhiệm quản lý tất cả các mặt nề nếp, đạo đức, tác phong, học tập, vệ sinh.. . khi giáo viên không đến lớp và nắm được tình hình của lớp hàng ngày chặt chẽ hơn.
4.1. Cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp
Cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp theo sơ đồ sau:
Lớp trưởng
Lớp phó văn thể 
Lớp phó lao động
Lớp phó học tập
TT
tổ 2
TT
tổ 4
TT
tổ 3
TT
tổ 2
TT
tổ 1
TT
tổ 5
Nhìn theo sơ đồ trên ta thấy cơ cấu tổ chức đội ngũ quản lý lớp gồm có: 
Một lớp trưởng: Chịu trách nhiệm chung tất cả các mặt của lớp.
Ba lớp phó: Hỗ trợ lớp trưởng quản lý tổ chức các mặt hoạt động của lớp về: Nề nếp học tập, lao động vệ sinh và văn hóa văn nghệ theo chức danh.
Cuối cùng lớp được chia làm 4 tổ học tập, mỗi tổ đều có một tổ trưởng, tổ trưởng chịu trách nhiệm quản lý các mặt hoạt động của tổ. 
4.2. Cơ chế vận hành của tổ chức quản lý lớp:
Ngoài vai trò cán bộ lớp vừa nêu trên, đặc điểm nổi bật của cơ chế vận hành này là: 
Thay đổi vị trí lãnh đạo của cán bộ lớp tức là mỗi học sinh trong lớp đều thực hiện vai trò cán bộ lớp trong một tuần sau đó cuối tuần các em sẽ tổng kết báo cáo vai trò lãnh đạo của mình đạt được những gì và chưa làm được những gì để rút kinh nghiệm. 
Hàng ngày, sau mỗi buổi học tất cả các nhóm trưởng các tổ báo cáo tình hình của tổ cho lớp trưởng và lớp trưởng sẽ tổng hợp các báo cáo đưa ra kết luận điểm mạnh, điểm yếu của lớp bằng văn bản nộp cho giáo viên chủ nhiệm vào cuối buổi học để giáo viên chủ nhiệm nắm được tình hình của lớp, tiếp theo lớp trưởng ghi nhận những tồn tại, yếu kém của lớp qua đầu buổi học sau sinh hoạt cho lớp rút kinh nghiệm để cho các thành viên trong lớp tự điều chỉnh hành vi của mình ngày càng tiến bộ hơn. 
Một chuyển đổi mới vai trò của lớp phó lao động và tổ trưởng là: Hàng ngày sau mỗi buổi học lớp phó lao động sẽ công bố và phân công khoảng 03 thành viên trực vệ sinh lớp cho ngày sau theo thứ tự danh sách lớp thay vì trước đây theo cách cũ lớp phó lao động bàn giao cho tổ trưởng và tổ trưởng sẽ phân công thành viên trong tổ trực nhật. Còn vai trò của tổ trưởng là quản lý vấn đề đi lại của các bạn trong tổ từ nhà đến trường và từ trường tới nhà để phát hiện những hành vi sai lệch của các bạn ngoài giờ ở trường, đảm trách khâu nề nếp của tổ và kết quả học tập của tổ, đồng thời đề ra phương hướng, kiến nghị giải pháp lên giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm sẽ thống nhất phương án chung nhằm thúc đẩy các thành viên của tổ điều chỉnh theo hướng tích cực trong khâu nề nếp, học tập, đạo đức tác phong.
Tóm lại, với cơ chế vận hành này, giáo viên chủ nhiệm dễ nắm bắt được tình hình của lớp kịp thời, các em học sinh sẽ tự giác, nâng cao được ý thức trách nhiệm của mình, giảm đi những hành vi vi phạm nội qui nhà trường, học sinh đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời sẽ rèn luyện cho các em là người có bản lĩnh, giải quyết được vấn đề khó khăn trong học tập và trong cuộc sống.
5. Biết lẵng nghe học sinh (là một nhà tư vấn tâm lý):
Cũng như đã trình bày ở trên, lứa tuổi này rất thích tự khẳng định mình, các em luôn tìm tòi học hỏi và làm như người lớn, có những thắc mắc không thể giải bày cùng ai, hoặc có những em môi trường sống trong gia đình khó khăn về kinh tế, thiếu tình thương, sự qua tâm với nhau trong gia đình, nên có khi các em tự hành động mang tính mâu thuẫn, ấu trĩ. Do đó GVCN phải tiếp cận với các em, tạo niềm tin đối với các em, để là chỗ dựa tinh thần để cho các em giãi bày tâm sự, giúp các em giải tỏa căng thẳng tâm lý, phải biết lắng nghe và kiềm chế xúc cảm của mình, cần có thái độ cởi mở khi học sinh thắc mắc, nhằm tạo bầu không khí tâm lý vui tươi, lành mạnh từ đó sẽ giúp giáo viên thuận lợi trong công tác giáo dục nhân cách học sinh.
6. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc giáo viên bộ môn:
Trong học tập, học sinh sẽ gặp trở ngại về phương pháp giảng dạy của giáo viên, có những phương pháp cứng nhắc nhàm chán hay có những giáo viên quá nghiêm khắc tạo bầu không khí học tập nặng nề chỉ biết la ó, chửi mắng dẫn đến các em không hứng thú học tập dẫn đến tình trạng học sinh cúp tiết, trốn học. 
Việc dự giờ thăm lớp rất cần thiết, nó sẽ giúp cho GVCN nắm bắt được tình trạng không khí học tập của lớp, nguyên nhân vì sao học sinh không thích học, không hiểu bài, hay cúp tiết, trốn học và đưa ra giải pháp kịp thời giúp học sinh ổn định tâm lý, củng cố lại sự hứng thú học tập của các em, đồng thời giúp giáo viên chủ nhiệm nắm được những thiếu sót trong phương pháp giảng dạy của GVBM và đóng góp chân thành, khéo léo, tế nhị sẽ giúp cho giáo viên bộ môn điều chỉnh lại phương pháp giảng dạy của mình, giúp học sinh hiểu bài, thích học bộ môn mình hơn. 
Ngoài ra, việc liên hệ thường xuyên với giáo viên bộ môn sẽ giúp cho GVCN nắm rõ được mức độ học tập, nề nếp của lớp hàng ngày.
7. Tổ chức mô hình “Đôi bạn cùng tiến”:
Phân công một học sinh kèm một học sinh. Mỗi ngày kiểm tra bài và bài tập của bạn, nhắc nhở bạn học bài, làm bài tập, thực hiện tốt nội quy của nhà trường và hướng dẫn các bạn làm những bài tập mà họ không làm được.. Mỗi tuần báo cáo tình hình học tập của lớp vào tiết sinh hoạt lớp. 
8. Tổ chức đối thoại trực tiếp:
Trong quá trình quản lý lớp, cán bộ lớp cũng gặp khó trong việc giải quyết xử lý tình huống trên lớp, do đó giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức một cuộc đối thoại trực tiếp với cán bộ lớp, vừa để nắm được một cách cụ thể chi tiết tình hình của từng học sinh trên lớp, vừa tạo cơ hội để cán bộ lớp thể hiện tâm tư nguyện vọng của mình, đồng thời là cơ hội để giáo viên chủ nhiệm bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý, phong cách giao tiếp ứng xử với bạn bè cho cán bộ lớp. .. làm sao cán bộ lớp đủ khả năng lãnh đạo tạo được sự đoàn kết thống nhất trong tập thể giúp tập thể ngày càng vững mạnh. 
9. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh:
Cần phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh để kiểm tra góc học tập, thời khoá biểu học ở nhà của mỗi học sinh, giờ giấc đi học và về của các em có hợp lí không 
Nắm rõ thời khóa biểu chính khóa và phụ đạo để theo dõi giờ giấc của các em, kiểm tra sổ liên lạc hàng tháng để biết kết quả học tập nhằm có sự nhắc nhở, động viên kịp thời.
IV. Hiệu quả áp dụng: 
Với những giải pháp trên khi tôi áp dụng vào lớp 9 mà tôi được phân công phụ trách, kết quả cho thấy có nhiều chuyển biến tích cực: 
Không còn học sinh đi học trễ
Hạn chế học sinh vắng.
Phong trào thi đua đều đạt thứ hạng cao, nhất hoặc nhì hàng tuần.
Không có học sinh trốn học, cúp tiết, la cà ở các quán, tiệm game.
100% học sinh chú ý trong học tập, ít nói chuyện trong giờ học.
Học sinh trung thực, thẳn thắn, đoàn kết, không ỉ lại vào bạn bè.
Các em luôn giúp đỡ nhau trong học tập và đạt kết quả đáng khích lệ.
Với giải pháp trên nếu tiến hành tốt, triệt để thì chắc chắn rằng lớp sẽ đạt được kết quả cao hơn ở cuối học kỳ.
V. Bài học kinh nghiệm: 
Trong công tác quản lý lớp chủ nhiệm, tôi gặp rất nhiều khó khăn, nhưng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân trong quá trình thực hiện cũng rút ra được một số bài học quý báo.
Học sinh cố gắng nhiều trong học tập cũng như trong công tác quản lý lớp, ít vi phạm nội qui nhà trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, đảm bảo tính trung thực khách quan trong chế độ báo cáo của học sinh.
Được sự hỗ trợ nhiệt tình của giáo viên bộ môn, có biện pháp và hỗ trợ kịp thời cùng giáo viên chủ nhiệm.
Được sự quan tâm của gia đình, kết hợp chặt chẽ cùng giáo viên chủ nhiệm bên cạnh sự giúp đỡ của BGH nhà trường của chính quyền địa phương. 
Giáo viên chủ nhiệm đỡ vất vả hơn và có thời gian thực hiện công tác khác.
Trên đây là một vài biện pháp trong phần quản lí học sinh của lớp chủ nhiệm rất mong sự đóng góp của các đồng nghiệp để giúp đỡ tôi làm tốt hơn cho năm học sau. Xin chân thành cảm ơn
C. KẾT LUẬN 
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
Bằng kinh nghiệm của mình khi tôi áp dụng vào thực tế, thì nắm bắt tình hình học sinh khi không đứng lớp, xử lí học sinh kịp thời, được phụ huynh thống nhất, vai trò tự quản của các em được nâng cao. Tôi tin rằng với biện pháp nêu trên, được sự giúp đỡ của giáo viên bộ môn, của BGH nhà trường, gia đình và xã hội, kết quả trong công tác chủ nhiệm lớp sẽ đạt cao hơn.
II. Khả năng áp dụng:
Bản thân là một giáo viên với tinh thần “yêu nghề, mến trẻ” thì đối với tất cả giáo viên nói chung và những người làm công tác chủ nhiệm nói riêng với những biện pháp đơn giản, dễ áp dụng đó, tôi nghĩ rằng có thể áp dụng rộng rãi và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
III. Đề xuất, kiến nghị:
Thông qua thực tế nghiên cứu thực trạng và thử nghiệm ở học sinh lớp 9 ở trường THCS tôi có một số ý kiến đề xuất như sau:
1. Đối với giáo viên, phải luôn quan tâm, giúp đỡ, lắng nghe ý kiến của các em để có biện pháp xử lí thích hợp giúp các em nhìn nhận những vấn đề đúng, sai và để tự hoàn thiện mình.
Chú ý xây dựng tập thể học sinh tự quản tốt nhằm phát huy tinh thần đoàn kết,

Source: https://vh2.com.vn
Category : Chế Tạo