Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Các thành tố năng lực tính toán của học sinh cuối cấp tiểu học – https://vh2.com.vn

Đăng ngày 15 May, 2023 bởi admin
Một phần của tài liệu ( LUẬN VĂN THẠC SĨ ) THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG CÁC THHT NHẰM ĐÁNH GIÁ NLTT CỦA HSCCTH QUA CÁC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM

9. Cấu trúc của luận án

1.3.2. Các thành tố năng lực tính toán của học sinh cuối cấp tiểu học

1.3.2.1. Căn cứ xác định các thành tố năng lực tính toán của học sinh cuối
cấp tiểu học

a) Căn cứ các nghiên cứu về các thành tố năng lực tính toán

Trong Chương trình của Úc, NLTT gồm 06 thành tố: 1-Ước lượng và tính
toán với các số tự nhiên; 2-Nhận biết và sử dụng các quy luật và các mối quan hệ; 3-
Sử dụng phân số và số thập phân, tỉ lệ phần trăm, tỉ số và tỉ lệ; 4-Sử dụng lập luận về
không gian; 5-Diễn giải các thông tin thống kê; 6-Sử dụng đo lường [75, tr.28-30].
Nguyễn Thị Kiều Oanh (2016), NLTT của HS tiểu học gồm 04 thành tố: 1-Thực hiện
thành thạo bốn phép tính số học, ước lượng. 2-Sử dụng chính xác ngôn ngữ toán học.
3-Biết vận dụng suy luận logic. 4-Sử dụng được một số dụng cụ toán học [50, tr.33].

Và đặc biệt quan trọng, trong Chương trình GDPT tổng thể và toàn diện 2018 xác lập NLTT bộc lộ qua : 1 – Nhận thức kỹ năng và kiến thức toán học ; 2 – Tư duy toán học ; 3 – Vận dụng kiến thức và kỹ năng, kĩ năng đã học [ 14, tr. 51 ]. Tuy nhiên, những thành tố nêu trên còn quá khái quát, chưa đơn cử để hoàn toàn có thể nhận dạng những hoạt động giải trí tính toán của HS, gây khó khăn vất vả cho giáo viên trong quy trình tiến hành và xác lập năng lực tính toán của HS. Do đó, thiết yếu xác lập những địa thế căn cứ để cụ thể hóa mỗi thành tố. Vì năng lực bộc lộ qua hoạt động giải trí và địa thế căn cứ vào những hoạt động giải trí tính toán chúng tôi chăm sóc những góc nhìn tính toán : 1 – Sử dụng những phép tính, công thức, quy tắc, tiến trình ; 2 – Sử dụng công cụ toán ; 3 – Sử dụng những thao tác tư duy ; 4 – Sử dụng ngôn từ toán ; 5 – Mô hình hóa toán học .

b) Căn cứ mục tiêu, nhiệm vụ môn toán cuối cấp tiểu học

Theo Phạm Văn Hoàn ( 1981 ), những kĩ năng toán gồm : Kĩ năng tính ( tính viết, … ) ; kĩ năng sử dụng dụng cụ toán ( thước, … ), kĩ năng đọc, vẽ hình ; kĩ năng đo đạc bằng dụng cụ, ước đạt ; kĩ năng toán học hóa nhiều trường hợp thực tiễn, kĩ năng thao tác với quy mô toán học từ đó nắm được quy luật của thực tiễn [ 31, tr. 42 ]. Các kĩ năng trên không sống sót độc lập, do đó khi nghiên cứu và điều tra những hoạt động giải trí tính toán của HS tiểu học cần xem xét những kĩ năng tương quan : Chuyển đổi ngôn từ toán, lập luận …
Mục tiêu, trách nhiệm môn toán tiểu học chăm sóc những yếu tố [ 28, tr. 20-22 ] : Trang bị kỹ năng và kiến thức cơ bản về phép tính, công thức, quy tắc, quá trình để thực hành thực tế tính toán, hướng đến hoạt động giải trí tính nhanh một cách phát minh sáng tạo ; trang bị kỹ năng và kiến thức cơ bản về công cụ toán ( thước, hình, bảng biểu, sơ đồ, … ) để đo, vẽ, … hướng tới
việc sử dụng chúng như công cụ linh động trong tính toán hiệu suất cao ; liên tục hình thành, rèn luyện và phát triển tư duy, nhấn mạnh vấn đề việc sử dụng thao tác tư duy trong tính toán ; ngôn từ toán được hình thành và rèn luyện qua giải toán, quy đổi ngôn từ toán, quy mô hóa toán học, hướng tới việc sử dụng chúng để tính toán hiệu suất cao trong đời sống .

c) Căn cứ nội dung chương trình môn toán cuối cấp tiểu học

Không chỉ trong hoạt động luyện tập củng cố mà cả trong hoạt động hình
thành kiến thức mới, HS tiểu học cũng có nhiều cơ hội sử dụng các phép tính, công
thức, quy tắc, quy trình. Chẳng hạn HS sử dụng quy trình thực hiện phép tính trên
số tự nhiên, phân số để khám phá quy trình thực hiện phép tính trên số thập phân.
Thực hành luyện tập luôn là cơ hội để HS sử dụng công cụ toán. Kiến thức toán lớp
4 lớp 5 hầu như được hình thành bằng cách sử dụng công cụ toán để khảo sát khám
phá (như: HS dùng thước thẳng, êke, kéo để gấp, đo, cắt, ghép đưa hình thang về
hình tam giác hoặc hình bành hành để khám phá cách tính diện tích hình thang). Các
nội dung được trình bày ở dạng khái quát và không sẵn có, tạo điều kiện cho HS sử
dụng các thao tác tư duy để tìm tòi khám phá, phát hiện và GQVĐ. HS có nhiều cơ hội
sử dụng ngôn ngữ toán qua việc hiểu nội dung toán trình bày trong sách giáo khoa,
chuyển đổi ngôn ngữ toán các bài toán có lời văn và tóm tắt, minh hoạ phân số trên mô
hình, trình bày cách làm… HS tiểu học có nhiều cơ hội mô hình hoá toán học như vẽ
sơ đồ tóm tắt bài toán, từ tranh ảnh phát biểu thành bài toán…

d) Căn cứ đặc điểm nhận thức của học sinh cuối cấp tiểu học trong việc
học toán

Việc khám phá đặc thù nhận thức của HSCCTH giúp GV hiểu rõ hơn đặc thù học toán của HS để hoàn toàn có thể khơi nguồn cho một phổ những hoạt động giải trí tương thích, tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho HS hoàn toàn có thể thể hiện NLTT và phát triển NLTT của bản thân .

Đặc điểm về hoạt động tìm tòi khám phá: Trước khi bước vào lớp 4, HS đã
có vốn kiến thức nhất định để chuẩn bị cho việc học tập sâu ở giai đoạn lớp 4-5. Khi
đó HS đã có nhiều thuận lợi để tìm tòi, khám phá kiến thức bằng chính vốn kiến
thức kinh nghiệm của mình. Mặt khác, HSCCTH có những tiến bộ về nhận thức
không gian như phối hợp cách nhìn một hình hộp từ các phía khác nhau, nhận thức
được các quan hệ giữa các hình với nhau ngoài các quan hệ trong nội bộ một hình,
từ đó phát triển NLTT của mỗi HS.

Sự ảnh hưởng của yếu tố trực quan trong hoạt động tính toán: Phương tiện
trực quan là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để hỗ trợ tính toán cho HS.
Các phương tiện trực quan ở lớp 4, 5 chủ yếu là các mô hình, hình vẽ tượng trưng,…
HS được hoạt động, khảo sát trên các đồ dùng trực quan để tự mình tính toán tìm tòi
khám phá cách giải quyết tình huống.

Sự phát triển tri giác: Tính tổng thể của tri giác dần nhường chỗ cho tri giác
chính xác, tinh tế. Trong hoạt động tính toán, quá trình định hướng hành động của
HSCCTH phát triển dần, khi đó những chỉ dẫn bằng lời của GV giảm dần trong quá
trình tri giác của các em.

Sự tập trung chú ý: HSCCTH biết chú ý hơn đến bản chất của sự vật hiện
tượng. HS có khả năng phân phối chú ý tới những dạng hành động khác nhau:
Chẳng hạn, trong cùng một thời điểm HS vừa có thể thực hiện các hoạt động tính
toán trong bài làm của mình vừa có thể theo dõi để tìm ra các lỗi sai của bạn. HS
vừa có thể thực hiện những hành động bên ngoài vừa có thể thực hiện những hành
động tư duy đối với các THHT phức tạp, có nhiều cách tính toán và trong những
hoạt động sáng tạo.

Sự phát triển trí nhớ: Trí nhớ của HSCCTH vẫn mang tính hình ảnh, cụ thể
và trực tiếp. HS ghi nhớ, giữ gìn và nhớ lại tốt hơn những gì được trực tiếp tác động
lên đó. HS có thể thực hiện được cả những thao tác ghi nhớ khó khăn như liên
tưởng,… nếu quá trình này có sử dụng các đồ dùng trực quan.

Sự phát triển tư duy: HSCCTH đã biết khái quát hoá trên cơ sở phân tích,
tổng hợp. HS nắm được các mối quan hệ của khái niệm, HS không chỉ lĩnh hội
được các thao tác thuận mà còn biết loại trừ. Đến đây, vai trò của tư duy trực quan
hình tượng dần nhường chỗ cho kiểu tư duy ngôn ngữ, mô hình. Mặc dù tư duy đã
phát triển lên mức cao hơn, tuy nhiên trong một chừng mực nào đó, hành động trên
các đồ vật, sự kiện bên ngoài vẫn còn là chỗ dựa hay điểm xuất phát của tư duy.

Sự phát triển tưởng tượng: Mọi hình ảnh tái tạo từ chỗ phải có điểm tựa là
những sự vật, những hành động cụ thể, đã đạt tới điểm tựa trình độ từ ngữ. Nhờ đó,
hình ảnh tưởng tượng của HSCCTH ngày càng phát triển theo xu hướng rút gọn,
khái quát hơn, chính xác hơn, sáng tạo hơn. Đây chính là tiền đề quan trọng của sự
phát triển loại tưởng tượng sáng tạo ở HS.

Sự phát triển khả năng tự ĐG: HSCCTH có nhu cầu tự ĐG và tự ĐG mình
một cách độc lập hơn. Tuy nhiên HS thường tự ĐG bản thân cao hơn so với hiện
thực. Do đó để thực hiện tự ĐG hiệu quả, GV cần cung cấp các tiêu chí cụ thể công
khai để HS có cơ sở đối chiếu.

e) Căn cứ thực trạng tính toán của học sinh cuối cấp tiểu học

Những khó khăn vất vả sai lầm đáng tiếc thông dụng của HS khi tính toán gồm : Các sai lầm đáng tiếc do thiếu cẩn trọng và những sai lầm đáng tiếc thông dụng khác như : Sai lầm về việc sử dụng những phép tính, công thức, quy tắc, quy trình tiến độ, công cụ toán trong thực hành thực tế tính toán ; khó khăn vất vả sai lầm đáng tiếc trong tư duy, suy luận ; trong sử dụng ngôn từ toán ; do sự tác động ảnh hưởng của yếu tố trực quan cảm tính ; do chưa hiểu thực chất của yếu tố ( xem mục 1.6.6 ) .

f) Căn cứ hoạt động tính toán của học sinh cuối cấp tiểu học

Hoạt động tính toán được cấu thành từ bao nhiêu thành tố sẽ có bấy nhiêu
thành tố của NLTT. Tương ứng từng hoạt động tính toán đã nêu ở mục 1.2.1, chúng
tôi xem xét NLTT gồm các thành tố: NL sử dụng các phép tính, công thức, quy tắc,
quy trình; NL sử dụng công cụ toán; NL sử dụng các thao tác tư duy; NL sử dụng
ngôn ngữ toán và NL mô hình hoá toán học.

1.3.2.2. Xác định các thành tố năng lực tính toán của học sinh cuối cấp tiểu học

Khi xử lý THHT, HS trải qua nhiều hoạt động giải trí tính toán, do đó việc phân hoạch NLTT ra những thành tố chỉ mang tính tương đối, trong chừng mực nào đó vẫn có sự giao thoa, ví dụ điển hình giao thoa giữa NL sử dụng những thao tác tư duy và NL sử dụng ngôn từ toán vì ngôn từ là vỏ bọc của tư duy. Tuy nhiên, việc phân loại này là cơ sở để thiết kế xây dựng những tiêu chuẩn, những hành vi của HS trong nhìn nhận NLTT.

a) Năng lực sử dụng các phép tính, công thức, quy tắc, quy trình

Các phép tính, công thức, quy tắc, quy trình của HSCCTH gồm: Bốn phép
tính số học mở rộng đến tập số hữu tỉ; các công thức và quy tắc tính chu vi, diện
tích, thể tích, các quan hệ chuyển đổi giữa các đại lượng; quy trình tính viết, vẽ hình…
Theo Hoàng Phê (2011), sử dụng có nghĩa là lấy làm phương tiện để phục vụ nhu cầu,
mục đích nào đó [51, tr.1126]. Theo đó, sử dụng các phép tính, công thức, quy tắc, quy
trình trong tính toán ở tiểu học có thể hiểu là các phép tính, công thức, quy tắc, quy
trình được lấy làm phương tiện để thực hiện các hoạt động tính toán trực tiếp.

toán ở tiểu học gồm hoạt động nhận dạng, gọi lại, áp dụng và kiểm tra. Hoạt động

nhận dạng thường bắt đầu bằng thao tác nhận biết một số yếu tố nào đó trong tình
huống (chẳng hạn hình vẽ trong tình huống có hình dạng quen thuộc, biểu thức
trong tình huống đã biết công thức tính hoặc có một kết hợp quen thuộc nào đó). Nhờ
sự nhớ lại, HS thiết lập mối liên hệ giữa tình huống và vốn kiến thức kinh nghiệm.
Hoạt động gọi lại còn gọi là huy động kiến thức nghĩa là lấy ra từ trí nhớ những yếu tố
liên quan đến tình huống. NL sử dụng các phép tính, công thức, quy tắc, quy trình
trong tính toán ở tiểu học có thể hiểu là khả năng nhận dạng và gọi lại chúng một cách
chính xác và áp dụng tính toán trực tiếp trên một bối cảnh cụ thể.

b) Năng lực sử dụng công cụ toán: Theo Hoàng Phê (2011), công cụ là cái

được dùng để tiến hành một việc nào đó, hoặc để đạt đến một mục đích nào đó [51,
tr.280]. Công cụ toán của HSCCTH gồm: Thước, compa, tranh ảnh, sơ đồ, mô hình,
máy tính cầm tay… Theo đó, sử dụng công cụ toán trong tính toán ở tiểu học có thể
hiểu là các công cụ toán được lấy làm phương tiện để thực hiện các hoạt động tính
toán trực tiếp. Hoạt động sử dụng công cụ toán trong tính toán của HSCCTH gồm
đo, vẽ, gấp, cắt, ghép,… NL sử dụng công cụ toán trong tính toán ở tiểu học có thể
hiểu là khả năng kết nối các nội dung trong tình huống với các công cụ toán một
cách hiệu quả trong tính toán trực tiếp trên một bối cảnh cụ thể.

c) Năng lực sử dụng các thao tác tư duy: Các thao tác tư duy sử dụng trong

tính toán ở tiểu học gồm : Phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng, đặc biệt hóa, … Không chỉ có những thao tác tư duy, tính toán cũng cần có những mô hình tư duy. Có nhiều tác giả điều tra và nghiên cứu về những mô hình tư duy như Hoàng Chúng, Phạm Văn Hoàn, Nguyễn Bá Kim, … Tùy mục tiêu nghiên cứu và điều tra, những tác giả đặt cho tư duy những mô hình khác nhau, trong khoanh vùng phạm vi hoạt động giải trí tính toán ở tiểu học, chúng tôi tập trung chuyên sâu làm điển hình nổi bật những yếu tố đặc trưng của những mô hình tư duy sau đây để thấy những thể hiện then chốt : Tư duy logic, tư duy nghiên cứu và phân tích, tư duy biện chứng, tư duy phát minh sáng tạo, tư duy trực giác .

– Tư duy logic vận dụng trong tính toán ở tiểu học: Theo Iu. M. Koliagin
(1980), tư duy logic đặc trưng bởi khả năng rút ra các kết quả từ các tiền đề, khả năng
tách ra các trường hợp riêng đã cho một cách triệt để, khả năng dự đoán các kết quả
bằng con đường lí thuyết, dự đoán quy luật và tổng quát hoá các kết quả [91, tr.140].

Ví dụ 7: “Với bảy số tự nhiên liên tiếp thoả mãn tổng bốn số đầu lớn hơn
tổng ba số sau cộng 17. Chứng tỏ mỗi số lớn hơn 26”. Tư duy logic thể hiện qua kí
hiệu hoá, tổng quát hoá. Gọi bảy số tự nhiên liên tiếp tăng dần a, b, c, d, e, g, h;

a b c d    e g h 17.

b 3 e c,  3 g d,  3 h nên a b c  d     b 3 c 3 d 3 17.
Do đó a b c  d   b c d26. Vậy a26.

– Tư duy phân tích vận dụng trong tính toán ở tiểu học: Theo Iu. M. Koliagin
(1980), tư duy phân tích không tách khỏi các dạng tư duy trừu tượng khác mà nó
biểu hiện rõ hơn trên từng giai đoạn tư duy, có khi nó diễn ra đồng thời nhưng cũng có
khi nổi trội hơn. Loại hình tư duy này liên hệ chặc chẽ với thao tác phân tích. Nó thể
hiện tính rõ ràng khúc chiết trong lập luận, trong tính toán cũng đòi hỏi như vậy, để
tính toán thành công cần trải qua nhiều bước lập luận theo trật tự logic [91, tr.140].

Ví dụ 8: “Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài gấp ba chiều rộng. Nếu
giảm chiều rộng 1m sau đó tăng chiều dài 1m thì diện tích giảm 7m2. Tính diện
tích thửa ruộng ban đầu”. Để giải bài toán, HS cần trải qua hai bước lập luận logic, trong
mỗi bước cần kết hợp các loại hình tư duy khác để làm sáng tỏ nội dung tính toán:

Hình 1.4. Chuyển đổi hình thức đối tượng để quy lạ về quen

Bước 1: Tìm chiều dài chiều rộng ban đầu. HS cần phân tích, khái quát để
chuyển đổi hình thức bài toán về hình 1.4a, kết hợp lập luận diện tích sẽ có

1 2 3 1 4

SSS  SS3S4 1, diện tích giảm nên S1S2S3S47, do đó

1 2 1 7

SS  , S1S2 6. Vì S1S2 nên S13, hình S1 có chiều rộng 1m nên chiều
dài 3m. Thửa ruộng ban đầu có chiều rộng 3m, chiều dài 3 3 9 ( )m. Nếu đưa về
hình 1.4b thì S1S2S3S5 và S1S2S3 1 S57, do đó cũng đưa được về
biểu thức S1S2 1 7 như trong hình 1.4a.

Bước 2: Tính diện tích 9 3 27 (  m2).

– Tư duy biện chứng vận dụng trong tính toán ở tiểu học: Tư duy biện chứng

1 m S1 S2 S3

Source: https://vh2.com.vn
Category : Doanh Nhân