Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tiểu học Violet

Đăng ngày 06 November, 2022 bởi admin

SKKN Một số giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản vừa đủ của tài liệu tại đây ( 223.44 KB, 29 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KIM ĐỘNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỨC HỢP
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC
Người thực hiện: Nguyễn Thị Bích Loan
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: trường tiểu học Đức Hợp-Kim Động – Hưng Yên
NĂM HỌC: 2012 – 2013
1
*******@*******
MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU TRANG
I. Lý do chọn sáng kiên
1. Lý do khách quan 2
2. Lý do chủ quan 4
PHẦN II: NỘI DUNG
6
I. Cơ sở lý luận 6
1. Cơ sở pháp lí 6
2. Cơ sở lý luận 6
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay 7
1.Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử 7
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay 8
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy và học 9
III. Một số biện pháp ứng dụng CNTT trong dạy học 11
1. Biện pháp 1 11
2. Biện pháp 2 14
3. Biện pháp 3 17
4. Biện pháp 4 19

5. Biện pháp 5 21
6. Biện pháp 6 24
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm 26
2. Điều kiện áp dụng 26
3. Hướng tiếp tục nghiên cứu 26
4. Đề xuất kiến nghị 17
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn sáng kiến
1. Lý do khách quan
1.1.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
2
Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những
thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu thế hội nhập với thế
giới của Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ trong cách dạy, cách
học và phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới. Với xu thế thay đổi mô
hình giáo dục theo hướng hiện đại thì trường học phải thay đổi môi trường giáo dục.
Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học cần tập trung vào việc tạp lập một
môi trường học tập cởi mở, sáng tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại
sẽ cung cấp tối đa khả năng tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi
giáo viên chỉ hướng dẫn kĩ năng, phương pháp giiair quyết công việc và xử lý thông
tin chính là cốt lõi của phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt
lõi trên, công nghệ thông tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu.
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như
công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ Công nghệ thông tin
&Truyền thông (ICT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email

Bạn Đang Xem : Sáng kiến kinh nghiệm tay nghề ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tiểu học Violet

mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri
thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa
nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong
đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
(ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),

Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ
với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát,
có thể chia sẻ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc
3
phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các
giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để
xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người.
Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học
tập và thi cử.
Trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn đến
công cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa
và tầm quan trọng của tin học và Công nghệ thông tin, truyền thông cũng như những
yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh
tế tri thức của nước ta nói riêng – thế giới nói chung.
1.2. Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông
tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học
vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng
CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh
chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không

nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận
dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của
mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ,
làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới
“xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin
học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những
phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
4
Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra
chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT ” trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học,
ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
mới phương pháp dạy học ở các môn.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà
bất cứ một giáo viên nào cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT vào giảng
dạy.
2. Lý do chủ quan
Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công
nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích
lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo dục, sự ủng
hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng
vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả
đúng với vai trò của nó.

Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành.
Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn
cao, tuy vậy vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về
phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là
việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên,
còn mang tính hình. Để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý
giáo dục tại các trường tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, tôi mạnh
5
dạn nghiên cứu vấn đề “Một số biện pháp Ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học”.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
1. Cơ sở pháp lý
6
– Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
– Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. Chỉ thị
29 nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một
bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục
và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như
một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất
cả các môn học” .
– Trong nhiệm vụ năm học 2005 – 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn
mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ nay
đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông

giai đoạn 2005 – 2010 của ngành.
– Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng CNTT
vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”.
2. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là
IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập
thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại – chủ yếu là kĩ thuật
máy tính và viễn thông – nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về
CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
7
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở
thành hiện thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo
dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất
nước.
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian
để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các
dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các

giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát
hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của
phương pháp multimedia (nhìn – nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới
đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức
căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên
cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy
bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.
Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá
nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm
thanh sinh động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực
hiện dạy ứng dụng CNTT. Một số tiết dạy có ứng dụng CNTT thì thường trình chiếu
8
nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt
mỏi, kém tích cực. Còn một số tiết dạy thì nội dung không nhất thiết phải trình chiếu
cũng thể hiện lên, chưa chắt lọc được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để
hỗ trợ.
Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc chưa biết khai
thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, Sketchpat,. ..
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu
cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối
phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng
máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
Từ khá sớm, một số trường học đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng
dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường
được trang bị một số máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích ứng dụng trong công tác

lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta
đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn
của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần
mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như:
Toán, tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo đức v.v
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử
dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập
huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet, thường được các giáo viên tham gia rất
đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng
phần mềm. Đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy
bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
9
đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học, Trên thị trường có thể dễ
dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất
nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung song sự giao tiếp giữa máy với người
chắc chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các
tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được
hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây
dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau
được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo
ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của
giáo viên trong việc giảng dạy
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT

trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
– CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
người và máy.
– E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình
thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào
dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy
người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là
10
hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là
người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này,
trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm
trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu
của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên
làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa
trên những hình thức cơ bản của một
lớp học thông thường
Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà
hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác

được tối đa sức mạnh của thế giới
Internet: khả năng phổ biến rất cao (có
thể 1 bài giảng hàng triệu người học),
hay có khả năng cập nhật các thông tin
mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần
trang bị cho lớp học máy tính, máy
chiếu và các thiết bị multimedia.
Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp
học phải là một phòng máy tính nối mạng
Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải
có máy tính riêng và những phần mềm
chuyên dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được cả
những thế mạnh của phương pháp dạy
học truyền thống (dựa trên giao tiếp
thầy-trò) và khai thác được những ưu
thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
những bài giảng điện tử).
Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy
trò.
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì
là ở giáo dục phổ thông, giáo viên
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại
Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau
đại học và những người đã đi làm.
11
học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để

làm chủ được quá trình học tập của
mình.
Đây là phương pháp mà các giáo viên ở
Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay
như dùng Powerpoint, Violet để thiết
kế bài giảng và dạy học dùng máy
chiếu. Những kết quả thu được là rất
đáng kể.
Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH
có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư
phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần
Thơ,
III. Một số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học
1. Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học cơ
bản nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các nhà trường.
Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ
biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học
và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy
đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực
sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với
cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
– Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
– Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán :
Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, … )
– Biết cách truy cập Internet.
– Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các
ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
– Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công

nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay
không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà
các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được
12
các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy – học như thế nào thì các
bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử
tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ
có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ
có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách
Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi
không dùng nữa? Nghĩa là dù ít hay nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính
theo ý riêng mình.
Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình
bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên
màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần
mềm PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003, hiện nay đã có
PowerPoint trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy
tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW (Toán ), GraphCalc
(Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) … Nếu chỉ
dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định
dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy
nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của
PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007) và cũng như một số phần mềm kể trên lúc
đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ: với
môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của quân ta và địch, thay vì giáo viên thuật lại
các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẵn thì bây giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn
các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào…
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao
tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho
bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các

hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh, ) được
thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ
hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng
13
chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên
(GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay
PowerPoint hay Violet sẽ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên
màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời
tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiệm được thời
gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho
thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn, HS hiểu bài sâu hơn.
Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh
họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình ảnh
của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lãnh thổ của các nước trên thế giới,……Nếu
chỉ trình bày xuông sẽ không hấp dẫn học trò bằng giảng dạy giáo án điện tử. Hiện
tại những hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên tương đối
nhiều trên Internet mà hiện tại nhà trường đều đã có mạng Internet, tôi nghĩ rằng nếu
chỉ cần bỏ một chút thời gian lên mạng mà có được những phần mềm, hình ảnh,
đoạn phim cần minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều đó
đồng nghĩa với việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin.
Tuy nhiên không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh
cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và
chỉnh sửa ảnh …. Nói tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi GV
cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây
là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy
chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ
nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ
có một tiết học thoải mái và sôi động.

Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một
không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe
giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người
14
dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu
PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ
thuật đã được đề cập là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể
thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp.
2. Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài
giảng ứng dụng Công nghệ thông tin
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt
ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng
thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang việc giảng bài bằng GAĐT (ứng dụng
CNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung thường mang một tư
tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẽ trình bày những gì mình
nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế
giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài.
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó)
là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.
Tùy theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa
một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học
của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên
nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí
nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu
ý về số lượng chữ, màu sắc, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề
mình muồn trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ
giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu
chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem
slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng

vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng không có nghĩa giáo án truyền thống bị lãng quên. Chúng ta
hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng
15
là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ
chứa văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần
được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và
giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới ra trường có thể nhớ
hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế
hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên
bài dạy, các mục kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào
cần trình bày sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ
lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay
đã trình bày hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lại, chúng ta phải kết hợp
đề cương này cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt
hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy này.
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Mỗi lớp học có trung bình từ 25- 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT
thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh
trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học
sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn
chiếu. Do đó để học sinh có thể quan sát được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo
viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức
sau:
– Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
– Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang trình
diễn.
– Về màu sắc của nền hình: Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập
trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng
chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược

lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
– Về Font chữ:
16
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục
có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Vntime, Arial, Times Roman,…) hạn chế
dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
– Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh
hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, khi dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho
nhiều người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.
– Về trình bày nội dung trên nền hình:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái
qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp
(thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu
lên màn. Các dạng đồ họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn
cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh.
Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì
cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta
mong muốn.
– Trình chiếu giáo án:
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung
trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân
đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội
dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích
hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ
ghi nhớ hơn.
* Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
– Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu,
nội dung, tiến trình bài giảng.

– Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính
tích cực của học sinh.
17
– Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định,
có tính hệ thống và khoa học.
– Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu
nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi
trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
– Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
– Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
3. Biện pháp 3: Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài
giảng có ứng dụng Công nghệ thông tin
Từ nhiều năm nay, ở các nhà trường đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử
dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu
(projector), Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ
dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền
thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình, ) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video ). Hơn
nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả
hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể
diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả
được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có
thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là
giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa
trên giao tiếp thầy – trò, chứ không phải giao tiếp máy – người. Mặt khác, vì giáo viên
là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được
những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các

tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp
dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
18
Tuy nhiên, muốn đầu tư xây dựng các bài giảng điện tử thì chỉ có một cách duy
nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để họ có thể tự xây dựng các bài
giảng cho riêng mình. Song, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng thành
thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm
các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng
trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình
ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh
sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên
tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v
đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả
những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên
nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT”
khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên
giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ
như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần
như đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu
quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút
vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm theo.
Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được
rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt
để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh,
phim ). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có
thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu
tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên ngoài thì sẽ rất khó khăn.
Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư liệu

như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như
Wikipedia, YouTube, đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và
19
đào tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại http://tulieu.edu.vn (cung cấp các tư liệu
giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại
http://baigiang.edu.vn (cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo viên
học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).
4. Biện pháp 4: Hướng dẫn sử dụng các phần mềm, tiện ích tiêu biểu phục vụ cho
công tác giảng dạy học và quản lý giáo dục
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính.
Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh,
bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử ) và các phần mềm chuyên
dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint,
Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v
4.1. Các phần mềm phổ thông
Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả mọi
người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần mềm
quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng Microsoft
Office)
Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo
cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng để soạn
giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ trên mạng
Internet.
Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các chi
phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là có thể
đưa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng.
Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ mà các
đơn vị hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công văn giấy tờ
hoặc gọi điện thoại (thậm chí điện thoại đường dài) trong những công việc thường
ngày. Ngày nay thư điện tử đã được sử dụng chủ yếu, với những ưu điểm vượt trội

như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn giản. Mỗi cá nhân sẽ có một địa chỉ thư
20
điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ việc quản lý và gửi nhận thư
điện tử rất dễ dàng.
UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các văn
bản, thư tín, Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là Unicode
hay TCVN, Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi, giúp có
thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy tính không có font chữ
tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại
thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã TCVN, còn miền Nam thì dùng
mã VNI.
Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều tính
năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những chức
năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó hiện nay
dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh
chụp hoặc hình vẽ).
4.2.Các phần mềm phục vụ cho giáo dục
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, nên khuyến khích học và sử dụng
các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc
giảng dạy.
Microsoft PowerPoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn
để làm bài giảng điện tử. PowerPoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho
phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện
đẹp. Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng
phần mềm Powerpoint.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được
những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp
(sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương
tự như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt,
dễ dùng, có những năng chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại bài tập, chức

21
năng thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt là khả năng gắn kết được với các
phần mềm công cụ khác.
Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh động,
các hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô phỏng và
tương tác sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người sử dụng cũng
phải ở mức khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không dùng Flash để tạo cả
một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ dùng để tạo ra các tư liệu rồi
kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo thành một bài giảng hoàn chỉnh.
5. Biện pháp 5: Hướng dẫn Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông
tin trực tuyến
Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư liệu,
nhưng như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề cần lo lắng
vì Internet đã chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân
loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt các thông tin trên đó
luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Như vậy một vấn đề quan trọng và bắt buộc
đối với giáo viên trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học là phải biết khai thác
nguồn tài nguyên phong phú trên Internet.
Có 2 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ cho việc giảng dạy như
sau:
5.1. Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến
Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình xã
hội, nội dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng người tham
gia xây dựng lên đến hàng triệu người. Trên thế giới đã xuất hiện các thư viện nổi
tiếng như:
– Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa
toàn thư khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục triệu
tình nguyện viên trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các kiến thức
khoa học phổ thông đến các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm hiểu về tiểu sử
những người nổi tiếng cho đến những vấn đề thời sự được cập nhật hàng ngày v.v

22
– http://Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng
ta có thể dễ dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở Việt
Nam cũng có trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ http://Clip.vn
– Thư viện tư liệu giáo dục http://tulieu.edu.vn là trang web chia sẻ các tư liệu
phim, ảnh, flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện là trang
web chia sẻ tư liệu dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư liệu.
– Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là http://baigiang.edu.vn. Đây là
trang web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình, đồng thời
tham khảo các bài giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên cả nước. Hiện
tại trang web đã có trên 200.000 thành viên tham gia, với hàng triệu lượt truy cập
mỗi tháng, số lượng tài nguyên lên đến 50.000 bài giảng và giáo án.
– Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ http://ebook.edu.net.vn. Đây là trang web
tập hợp các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ GD&ĐT với
các trường Đại học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN, ĐH Sư phạm HN,
Đại học Cần Thơ, Tuy nhiên đây không phải là trang web cộng đồng nên lượng
thông tin không lớn và không được cập nhật thường xuyên.
Thư viện tư liệu giáo dục và Thư viện bài giảng điện tử là các hệ thống mở,
không những giúp giáo viên có thể download các tư liệu dạy học và các bài giảng
mẫu mà còn cho phép giáo viên có thể đưa các tư liệu và bài giảng của mình lên để
chia sẻ với mọi người. Việc sử dụng các hệ thống mở như trên hiện nay đang là xu
hướng tất yếu của ngành CNTT, với những ưu điểm vượt trội là:
• Hoàn toàn miễn phí.
• Có hệ thống dữ liệu khổng lồ vì là do cộng đồng cùng xây dựng.
• Luôn được cập nhật thường xuyên, từng ngày, từng giờ.
• Các tư liệu cũng như bài giảng có chất lượng cao vì được chọn lọc và tổng
hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra công ty Bạch Kim cũng luôn có một đội ngũ
kỹ thuật thường xuyên xây dựng các tư liệu mới và bài giảng mới theo yêu cầu của
• giáo viên các nơi để đưa lên Thư viện.
23

• Thư viện cũng là kênh kết nối các giáo viên trên cả nước, giúp mọi người
học hỏi và chia sẻ với nhau nhiều vấn đề trong công việc của mình.
Đây cũng là tư tưởng chủ đạo trong công văn số 9584/BGDĐT-CNTT của Bộ
GD&ĐT về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về CNTT và
phát động năm học 2008-2009 là năm CNTT. Vì vậy, mặc dù mới triển khai 2 hệ
thống này từ tháng 9/2007, nhưng đã nhận được sự hưởng ứng của rất đông giáo viên
trên cả nước (gần 40.000 người). Hiện hai hệ thống thư viện đã có hơn 40.000 mục
tư liệu và gần 8.000 bài giảng mẫu.
Trên thế giới cũng đã có những thư viện trực tuyến do cộng đồng phát triển đã rất
nổi tiếng như thư viện Bách khoa toàn thư Wikipedia.org, thư viện chia sẻ video trực
tuyến YouTube.com, thư viện mã nguồn CodeProject.com v.v Chính vì vậy, mô hình
“mở” chính là xu thế phát triển của tất cả các hệ thống công nghệ thông tin trong hiện
tại và tương lai gần.
5.2. Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo.
Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng
http://google.com.vn
http://yahoo.com.vn
http://baamboo.com
Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất của
nền khoa học kỹ thuật hiện đại, nó quy tụ được tri thức nhân loại về một nơi. Có thể
nói chúng ta cần bất cứ thông tin gì thì các máy tìm kiếm này có cung cấp cho chúng
ta gần như ngay lập tức, từ hàng chục tỷ trang Web và nguồn tài nguyên khác nhau
trên mạng Internet.
Ví dụ: một người nước ngoài muốn tìm hiểu về phở Hà Nội, họ chỉ cần lên mạng,
vào công cụ tìm kiếm, gõ chữ “phở Hà Nội” là có thể hiện ra hàng trăm trang webside
về chủ đề này. Một người Hà Nội muốn có hình ảnh về chợ Bến Thành thì chẳng cần
phải vào tận thành phố Hồ Chí Minh để chụp ảnh mà chỉ cần vào mạng, sau vài thao tác
đơn giản là có thể tìm được hàng chục bức ảnh.
24
Công cụ tìm kiếm thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại thành cuốn cẩm

nang đầu giường đối với mỗi con người hiện đại. Ngay cả đối với giáo viên thì cũng
nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng, giáo án là phải kết nối Internet và
sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra những sản phẩm có chất
lượng được.
Các công cụ tìm kiếm thực chất đã làm thay đổi một phần của thế giới, con
người không cần phải nhồi nhét những kiến thức khoa học và đời sống để trở thành
những học giả uyên thâm, mà chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén, sáng tạo thì
mới phát huy được hiệu quả trong công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiểu
được điều này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn những vấn đề cần làm trong giáo dục hiện
nay, nhất là giáo dục phổ thông.
6. Biện pháp 6: Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã
hội
Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến
thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau.
Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến nhất hiện
nay là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng.
Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục của
Bộ GD&ĐT, địa chỉ http://edu.net.vn/forums, trong đó trao đổi về mọi vấn đề liên
quan đến giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong giáo dục,
các chính sách mới của Bộ GD&ĐT.
Diễn đàn giáo viên: địa chỉ http://diendan.bachkim.vn, là diễn đàn chuyên cho giáo
viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng dụng CNTT
trong dạy học.
Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia các
mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể coi là
trang web riêng) cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh nghiệm
trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem các blog của
25

2.3. Trao đổi trình độ, san sẻ tài nguyên trên những mạng xã hội

Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau. Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến nhất hiện nay là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng.

Diễn đàn giáo viên: địa chỉ http://violet.vn, là diễn đàn chuyên cho giáo viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng dụng CNTT trong dạy học.

Một hình thức trao đổi, san sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia những mạng xã hội. Ở những mạng này, mỗi người hoàn toàn có thể thiết kế xây dựng những blog ( hoàn toàn có thể coi là website riêng ) cho mình. Tại những blog, giáo viên hoàn toàn có thể san sẻ những kinh nghiệm tay nghề trong dạy học và trong đời sống. Bạn bè đồng nghiệp hoàn toàn có thể vào xem những blog của nhau và gửi lên quan điểm của mình .

Facebook.com hiện nay đang được giới trẻ ưa chuộng, thực tế thì cũng có nhiều điểm chưa tốt, chưa kiểm soát được. Tuy nhiên, tùy từng mục đích sử dụng, các blog có thể phát huy tính tích cực rất cao, mà đặc biệt nếu các giáo viên biết sử dụng để làm tốt hơn cho công việc giảng dạy của mình.

  1. Ưu – Khuyết điểm

Qua quy trình giảng dạy bằng phương tiện đi lại trình chiếu Power Point tôi nhận thấy phương tiện đi lại này có những ưu – khuyết điểm sau .
Xem Thêm : Cách làm KOL ShopeeƯu điểm :

  • Giáo viên ít dùng lời nói.
  • Tiết dạy nhẹ nhàng, giáo viên tự tin vì mình đã chuẩn bị đầy đủ nhũng kiến thức cần thiết trong bài học..
  • Học sinh hứng thú, sôi nổi và được trực quan qua hình ảnh, phim tư liệu,…
  • Học sinh được tiếp xúc với hình thức học tập mới lạ, tiếp nhận hiệu quả của công nghệ thông tin.
  • Qua những hình ảnh, đoạn phim, học sinh bộc lộ cảm xúc, tư duy của mình rõ hơn.

Khuyết điểm :

  • Tốn khá nhiều thời gian tìm tòi, sưu tầm tranh, phim tư liệu.
  • Thiết bị và phương tiện máy chiếu còn hạn chế.
  • Giáo viên cần thành thạo vi tính, nắm vũng chương trình giáo án điện tử.
  • Trường hợp mất điện – sẽ không thực hiện được.

PHẦN III: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Nhờ vận dụng những kinh nghiệm tay nghề trên trong năm học vừa mới qua chất lượng dạy học ở lớp tôi nói riêng chất lượng toàn trường nói chung có hiệu suất cao rõ ràng. Đã có nhiều em phát huy được năng lượng tích cực dữ thế chủ động trong học tập và phát minh sáng tạo, hoạt động giải trí học tập rất tốt. Các em văn minh rất nhiều về kĩ năng nói, kĩ năng vấn đáp thắc mắc, kĩ năng bày tỏ quan điểm, sự mạnh dạn, tự tin khi biểu lộ mình .

  1. a. Đối với học sinh:

– Được làm quen với hình ảnh trực quan sinh động .
– Học sinh được nhìn thấy nhiều hình ảnh và âm thanh trong thực tiễn ngoài đời .
– Học sinh hứng thú, tiếp thu bài nhanh .
– Khảo sát trên 3 khối lớp 3, 4, 5 với 305 học viên thì 100 % những em rất thích những tiết học có ứng dụng CNTT .
– Nếu như trước đây hiệu suất cao tiết dạy những em tiếp thu được 50 % thì từ khi có ứng dụng CNTT tăng 90 % .

  1. Đối với giáo viên:

– Tự tin khi lên bục giảng .
– Tiết kiệm được thời hạn trình diễn bằng những vật dụng trực quan .
– Đẫn dắt học viên vào yếu tố một cách nhẹ nhàng và sinh động .

– So sánh qua 2 năm học 2012 – 2013 và năm học 2015 – 2016 với 25 giáo viên áp dụng CNTT trong dạy học tôi đã thu được các kết quả sau:

Năm học 2012 – 2013N ăm học năm ngoái – 2016G iáo viên có địa chỉ email12 giáo viên
Chiếm 48 %
25 giáo viên
Chiếm 100 %
Giáo viên có năng lực, khai thác ứng dụng CNTT11 giáo viên
Chiếm 44 %
23 giáo viên
Chiếm 92 %
Số bài giảng có ứng dụng CNTT32 bài341 bàiGiáo viên có trình độ Tin học A trở lên12 giáo viên
Chiếm 48 %
25 giáo viên
Chiếm 100 %
Giáo viên có sử dụng mạng xã hội. 9 giáo viên

Chiếm 36%

25 giáo viên
Chiếm 100 %

  1. Đối với nhà trường:

Xem Thêm : Một cuốn sách có 200 trang thì cần dùng bao nhiêu chữ số để đánh số trang của cuốn sách đó– Nâng cao chất lượng giảng dạy và kinh nghiệm tay nghề của giáo viên trong việc úng dụng CNTT .
– Nâng cao chất lượng học viên .
– Được tăng cường thêm tư liệu vật dụng dạy học .
– Giáo viên trong trường có thời cơ tìm hiểu thêm, học hỏi lẫn nhau về cách thực thi, cách giảng dạy giáo án điện tử và có ngân hàng nhà nước bài giảng ứng dụng công nghệ thông tin cho trường làm tư liệu .
Sau một thời hạn vận dụng chúng tôi đã nhận thức việc ứng dụng CNTT trong dạy học có nhiều ưu việt. Giờ học của thầy và trò chúng tôi đã sinh động, mê hoặc và hiệu suất cao hơn trước nhiều .

PHẦN IV: KẾT LUẬN

  1. Bài học kinh nghiệm

Tuy để thực thi một giáo án điện tử mất không ít thời hạn và đôi lúc gặp nhiều khố khăn về kĩ thuật nhưng thiết kế xây dựng được giáo án điện tử có chất lượng thì tôi cảm thấy rất vui mừng. Vì qua đó, tôi đã đem đến cho học viên của mình những giờ học viên đông, lí thú, có ích, …. Những tác dụng mà học viên đạt được đã làm cho tôi thương mến và mê hồn khi giảng dạy có ứng dụng công nghệ thông tin .
Thế nên, tôi mong ước rằng càng ngày công nghệ tiên tiến máy móc tân tiến ship hàng cho việc giảng dạy và mỗi một giáo viên tất cả chúng ta cần mạnh dạn vận dụng giảng dạy giáo án điện tử. Có như vậy, hiệu suất cao cũng như chất lượng dạy – học của giáo viên và học mỗi ngày đạt chất lượng cao .
Hy vọng rằng, với kinh nghiệm tay nghề nhỏ nhoi khi soạn giảng trên máy tính mà tôi đã đúc rút trong thời hạn qua, sẽ góp thêm phần giúp giáo viên tất cả chúng ta tự tin hơn khi ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy .
Qua đây, tôi cũng mong nhận được sự góp phần chân thành của quý thầy cô đồng nghiệp để vận dụng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ngày một hiệu suất cao hơn nữa nhằm mục đích phát huy năng lượng của giáo viên và quan trọng hơn nửa là chất lượng học tập của học viên .

  1. Kiến nghị và đề xuất

2.1. Đối với giáo
– Phải tận tâm với nghề, phải thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong công cuộc thay đổi của giáo dục lúc bấy giờ .
– Với vai trò là giáo viên chủ nhiệm, phải tuyên truyền sâu rộng đến từng cha mẹ để họ tuyệt đối tin cậy vào sự thay đổi này và hội đồng nghĩa vụ và trách nhiệm cùng giáo viên chủ nhiệm .
– Có ý thức học hỏi đồng nghiệp, đặc biệt quan trọng là những đồng nghiệp ở những trường thực thi thử nghiệm quy mô VNEN .
2.2. Đối với nhà trường :
BGH phải luôn sát cánh cùng giáo viên, rất là tương hỗ cho giáo viên, phải tiếp tục chăm sóc, động viên, chỉ ra được những việc giáo viên đã làm được để tạo động lực cho giáo viên, đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những việc giáo viên chưa làm được để khắc phục, tránh phê bình chung chung hoặc giao khoán .
Nhà trường cũng nên tăng cường cho giáo viên được giao lưu những trường bạn, học tập những quy mô hay, những cách làm hiệu suất cao để vận dụng một cách linh động tại trường mình .
Trên đây là 1 số ít giải pháp của bản thân tôi để nâng cao hiệu suất cao việc vận dụng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ngày một tốt hơn nữa nhằm mục đích phát huy năng lượng của giáo viên và quan trọng hơn nửa là chất lượng học viên ngày một đi lên .
Rất mong nhận được những quan điểm góp phần quý báu của những đồng nghiệp .

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Dạy Học Tiểu Học

Trang chủ » Tài Liệu Sáng Kiến Kinh Nghiệm » Sáng Kiến Kinh Nghiệm Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Dạy Học Tiểu Học

  • 23/09/2021
  • https://vh2.com.vn/wp-content/uploads/2022/03/tre1baa7n20khc3a1nh20ngc3a2n-1.html

    https://vh2.com.vn/wp-content/uploads/2022/03/tre1baa7n20khc3a1nh20ngc3a2n-1.htmlhttps://vh2.com.vn/wp-content/uploads/2022/03/tre1baa7n20khc3a1nh20ngc3a2n-1.html

4.8 / 5 ( 5 bình chọn )

Trong bài viết hôm nay, Best4Team xin chia sẻ đến bạn đọc những sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tiểu học – đây đều là những đề tài có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục. Dựa vào đó, các giáo viên có thể linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy, thiết kế một bài giảng có nhiều hình ảnh trực quan, giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn.

https://vh2.com.vn/wp-content/uploads/2022/03/skkn20ung20dung20cntt20trong20day20hoc20tieu20hoc201-1.html

https://vh2.com.vn/wp-content/uploads/2022/03/skkn20ung20dung20cntt20trong20day20hoc20tieu20hoc201-1.htmlỨng dụng CNTT trong giảng dạy ở bậc tiểu học

SKKN : Một số giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường tiểu học

Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học cần tập trung chuyên sâu vào việc tạo lập một môi trường học tập cởi mở, phát minh sáng tạo. Một thiên nhiên và môi trường giáo dục tân tiến sẽ phân phối tối đa năng lực tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học viên chính là cốt lõi của phương pháp giáo dục này. » Xem thêm

Mời các bạn cùng tham khảo thêm bài SKKN này nhé.
» Thu gọn

Chủ đề :

  • Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
  • Sáng kiến kinh nghiệm lớp
  • Sáng kiến giảng dạy
  • Kinh nghiệm giảng dạy
  • Phương pháp giảng dạy

Download
Xem trực tuyến

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KIM ĐỘNG
    TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỨC HỢP

    SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
    MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
    THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU
    HỌC

    Người thực hiện: Nguyễn Thị Bích Loan
    Chức vụ: Hiệu trưởng
    Đơn vị công tác: trường tiểu học Đức Hợp-Kim Động – Hưng Yên

    NĂM HỌC: 2012 – 2013
    *******@*******

    0

  2. PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
    I. Lý do chọn sáng kiến
    1. Lý do khách quan
    1.1.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
    Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những
    thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu thế hội nhập với thế
    giới của Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ trong cách dạy, cách
    học và phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới. Với xu thế thay đổi mô
    hình giáo dục theo hướng hiện đại thì trường học phải thay đổi môi trường giáo dục.
    Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học cần tập trung vào việc tạp lập một
    môi trường học tập cởi mở, sáng tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại
    sẽ cung cấp tối đa khả năng tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi
    giáo viên chỉ hướng dẫn kĩ năng, phương pháp giiair quyết công việc và xử lý thông
    tin chính là cốt lõi của phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt
    lõi trên, công nghệ thông tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu.
    Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
    dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như
    công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
    toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
    Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ Công nghệ thông tin
    &Truyền thông (ICT).
    Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email
    mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri
    thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa
    nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong
    đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
    (ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
    1
  3. diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử
    (blogger),…
    Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ
    với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
    sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát,
    có thể chia sẻ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc
    phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các
    giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để
    xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người.
    Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học
    tập và thi cử.
    Trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn đến
    công cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa
    và tầm quan trọng của tin học và Công nghệ thông tin, truyền thông cũng như những
    yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp
    ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh
    tế tri thức của nước ta nói riêng – thế giới nói chung.
    1.2. Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
    Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông
    tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
    CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học
    vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng
    CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh
    chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không
    nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận
    dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của
    mình.
    Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ,
    làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã
    2
  4. hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát
    triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
    Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin
    học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin
    học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những
    phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
    Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra
    chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT ” trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học,
    ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
    mới phương pháp dạy học ở các môn.
    Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà
    bất cứ một giáo viên nào cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT vào giảng
    dạy.
    2. Lý do chủ quan
    Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công
    nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
    tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích
    lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong
    việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
    Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục
    nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo dục, sự ủng
    hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng
    vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả
    đúng với vai trò của nó.
    Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
    dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
    đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
    Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành.
    Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn
    3
  5. cao, tuy vậy vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về
    phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là
    việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
    các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên,
    còn mang tính hình. Để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý
    giáo dục tại các trường tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, tôi mạnh
    dạn nghiên cứu vấn đề “Một số biện pháp Ứng dụng công nghệ thông tin
    trong dạy học”.
    4
  6. PHẦN II. NỘI DUNG
    I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
    1. Cơ sở pháp lý
    – Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng
    dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
    – Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. Chỉ thị
    29 nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một
    bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
    giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục
    và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như
    một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất
    cả các môn học” .
    – Trong nhiệm vụ năm học 2005 – 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn
    mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ nay
    đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông
    giai đoạn 2005 – 2010 của ngành.
    – Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng CNTT
    vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”.
    2. Cơ sở lý luận
    Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là
    IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy
    tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập
    thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
    Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
    pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại – chủ yếu là kĩ thuật
    máy tính và viễn thông – nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
    5
  7. tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
    con người và xã hội.
    Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
    chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về
    CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
    Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
    học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở
    thành hiện thực.
    Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
    học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
    chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo
    dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất
    nước.

    II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
    1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
    Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian
    để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các
    dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các
    giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều
    thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát
    hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
    với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của
    phương pháp multimedia (nhìn – nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới
    đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
    giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức
    căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên
    cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy
    bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.

    6

  8. Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá
    nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm
    thanh sinh động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một
    trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực
    hiện dạy ứng dụng CNTT. Một số tiết dạy có ứng dụng CNTT thì thường trình chiếu
    nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt
    mỏi, kém tích cực. Còn một số tiết dạy thì nội dung không nhất thiết phải trình chiếu
    cũng thể hiện lên, chưa chắt lọc được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để
    hỗ trợ.
    Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc chưa biết khai
    thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, Sketchpat,. . .
    Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu
    cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối
    phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng
    máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
    2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
    Từ khá sớm, một số trường học đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng
    dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường
    được trang bị một số máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích ứng dụng trong công tác
    lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta
    đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn
    của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần
    mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như:
    Toán, tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo đức v.v…
    Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
    Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
    lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử
    dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập
    huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet,… thường được các giáo viên tham gia rất
    7
  9. đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng
    phần mềm. Đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy
    bằng máy tính.
    Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
    nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
    đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học,… Trên thị trường có thể dễ
    dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
    đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất
    nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung song sự giao tiếp giữa máy với người
    chắc chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò…
    Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các
    tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được
    hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây
    dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau
    được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo
    ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của
    giáo viên trong việc giảng dạy…
    3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
    Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT
    trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
    tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
    – CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
    thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
    truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
    mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
    người và máy.
    – E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
    giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
    thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình
    8
  10. thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
    tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
    Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào
    dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy
    người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là
    hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là
    người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này,
    trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm
    trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu
    của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên
    làm gì trong giai đoạn hiện nay.
    CBT E-learning
    Có thể phát triển, cải tiến từ phương Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
    pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà
    trên những hình thức cơ bản của một hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác
    lớp học thông thường được tối đa sức mạnh của thế giới
    Internet: khả năng phổ biến rất cao (có
    thể 1 bài giảng hàng triệu người học),
    hay có khả năng cập nhật các thông tin
    mới ngay lập tức.
    Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp
    trang bị cho lớp học máy tính, máy học phải là một phòng máy tính nối mạng
    chiếu và các thiết bị multimedia. Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải
    có máy tính riêng và những phần mềm
    chuyên dụng.
    CBT là phương pháp kết hợp được cả
    những thế mạnh của phương pháp dạy Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
    học truyền thống (dựa trên giao tiếp điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy
    thầy-trò) và khai thác được những ưu trò.
    9
  11. thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
    những bài giảng điện tử).
    Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau
    là ở giáo dục phổ thông, giáo viên đại học và những người đã đi làm.
    không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
    theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại
    học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để
    làm chủ được quá trình học tập của
    mình.
    Đây là phương pháp mà các giáo viên ở Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
    Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH
    như dùng Powerpoint, Violet để thiết có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư
    kế bài giảng và dạy học dùng máy phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần
    chiếu. Những kết quả thu được là rất Thơ,…
    đáng kể.

    III. Một số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học
    1. Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học cơ
    bản nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các nhà trường.
    Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ
    biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học
    và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy
    đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực
    sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với
    cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
    – Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
    – Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán :
    Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, …..)
    – Biết cách truy cập Internet.

    10

  12. – Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các
    ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
    – Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
    Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công
    nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay
    không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà
    các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được
    các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy – học như thế nào thì các
    bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử
    tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ
    có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ
    có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách
    Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi
    không dùng nữa?….. Nghĩa là dù ít hay nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính
    theo ý riêng mình.
    Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình
    bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên
    màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần
    mềm PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003, hiện nay đã có
    PowerPoint trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy
    tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW (Toán ), GraphCalc
    (Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) …..Nếu chỉ
    dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định
    dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy
    nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của
    PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007) và cũng như một số phần mềm kể trên lúc
    đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ: với
    môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của quân ta và địch, thay vì giáo viên thuật lại
    các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẵn thì bây giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn
    11
  13. các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào…
    Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao
    tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho
    bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các
    hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh, ..) được
    thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ
    hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng
    chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên
    (GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay
    PowerPoint hay Violet sẽ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên
    màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời
    tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiệm được thời
    gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho
    thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn, HS hiểu bài sâu hơn.
    Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh
    họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình
    ảnh của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lãnh thổ của các nước trên thế
    giới,……Nếu chỉ trình bày xuông sẽ không hấp dẫn học trò bằng giảng dạy giáo án
    điện tử. Hiện tại những hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói
    trên tương đối nhiều trên Internet mà hiện tại nhà trường đều đã có mạng Internet ,
    tôi nghĩ rằng nếu chỉ cần bỏ một chút thời gian lên mạng mà có được những phần
    mềm, hình ảnh, đoạn phim cần minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn
    lòng cả. Điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet
    để lấy thông tin. Tuy nhiên không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà
    những hình ảnh cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh),
    chụp ảnh và chỉnh sửa ảnh …. Nói tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu
    quả thì mỗi GV cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học.
    Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
    projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây
    12
  14. là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy
    chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ
    nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ
    có một tiết học thoải mái và sôi động.
    Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một
    không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe
    giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người
    dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu
    PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ
    thuật đã được đề cập là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể
    thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp.
    2. Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài
    giảng ứng dụng Công nghệ thông tin
    Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt
    ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng
    thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
    Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang việc giảng bài bằng GAĐT (ứng dụng
    CNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung thường mang một tư
    tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẽ trình bày những gì mình
    nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế
    giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài.
    Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó)
    là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.
    Tùy theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa
    một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học
    của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên
    nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí
    nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu
    ý về số lượng chữ, màu sắc, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề
    13
  15. mình muồn trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ
    giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu
    chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem
    slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng
    vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo.
    Sử dụng GAĐT cũng không có nghĩa giáo án truyền thống bị lãng quên. Chúng ta
    hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng
    là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ
    chứa văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần
    được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và
    giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới ra trường có thể nhớ
    hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế
    hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên
    bài dạy, các mục kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào
    cần trình bày sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ
    lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay
    đã trình bày hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lại, chúng ta phải kết hợp
    đề cương này cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt
    hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy này.
    * Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
    Mỗi lớp học có trung bình từ 25- 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT
    thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh
    trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học
    sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn
    chiếu. Do đó để học sinh có thể quan sát được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo
    viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức
    sau:
    14
  16. – Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
    – Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang trình
    diễn.
    – Về màu sắc của nền hình: Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập
    trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng
    chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược
    lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
    – Về Font chữ:
    Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục
    có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau)
    Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Vntime, Arial, Times Roman,…) hạn chế
    dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
    – Về cỡ chữ:
    Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh
    hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, khi dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho
    nhiều người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.
    – Về trình bày nội dung trên nền hình:
    Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái
    qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp
    (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu
    lên màn. Các dạng đồ họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn
    cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh.
    Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì
    cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta
    mong muốn.
    – Trình chiếu giáo án:
    Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung
    trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân
    đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội
    15
  17. dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích
    hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ
    ghi nhớ hơn.
    * Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
    – Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu,
    nội dung, tiến trình bài giảng.
    – Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính
    tích cực của học sinh.
    – Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định,
    có tính hệ thống và khoa học.
    – Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu
    nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi
    trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
    – Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
    – Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
    3. Biện pháp 3: Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài
    giảng có ứng dụng Công nghệ thông tin
    Từ nhiều năm nay, ở các nhà trường đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử
    dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu
    (projector),… Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ
    dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền
    thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình,…) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video…). Hơn
    nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả
    hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể
    diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả
    được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có
    thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
    Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
    mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là
    16
  18. giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa
    trên giao tiếp thầy – trò, chứ không phải giao tiếp máy – người. Mặt khác, vì giáo viên
    là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được
    những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh
    và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
    Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các
    tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp
    dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
    Tuy nhiên, muốn đầu tư xây dựng các bài giảng điện tử thì chỉ có một cách duy
    nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để họ có thể tự xây dựng các bài
    giảng cho riêng mình. Song, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng thành
    thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm
    các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét…
    Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng
    trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình
    ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh
    sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên
    tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v…
    đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả
    những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên
    nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
    Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT”
    khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên
    giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ
    như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần
    như đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu
    quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút
    vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm theo.
    Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được
    17
  19. rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt
    để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh,
    phim…). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có
    thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu
    tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên ngoài thì sẽ rất khó khăn.
    Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư liệu
    như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như
    Wikipedia, YouTube,… đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và
    đào tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại http://tulieu.edu.vn (cung cấp các tư liệu
    giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại
    http://baigiang.edu.vn (cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo viên
    học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).
    4. Biện pháp 4: Hướng dẫn sử dụng các phần mềm, tiện ích tiêu biểu phục vụ cho
    công tác giảng dạy học và quản lý giáo dục
    Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính.
    Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh,
    bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử…) và các phần mềm chuyên
    dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint,
    Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v…
    4.1. Các phần mềm phổ thông
    Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả mọi
    người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần mềm
    quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng Microsoft
    Office)
    Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo
    cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng để soạn
    giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ trên mạng
    Internet.
    18
  20. Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các chi
    phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là có thể
    đưa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng.
    Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ mà các
    đơn vị hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công văn giấy tờ
    hoặc gọi điện thoại (thậm chí điện thoại đường dài) trong những công việc thường
    ngày. Ngày nay thư điện tử đã được sử dụng chủ yếu, với những ưu điểm vượt trội
    như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn giản. Mỗi cá nhân sẽ có một địa chỉ thư
    điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ việc quản lý và gửi nhận thư
    điện tử rất dễ dàng.
    UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các văn
    bản, thư tín,… Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là Unicode
    hay TCVN,… Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi, giúp có
    thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy tính không có font chữ
    tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại
    thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã TCVN, còn miền Nam thì dùng
    mã VNI.
    Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều tính
    năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những chức
    năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó hiện nay
    dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh
    chụp hoặc hình vẽ).
    4.2.Các phần mềm phục vụ cho giáo dục
    Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, nên khuyến khích học và sử dụng
    các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc
    giảng dạy.
    Microsoft PowerPoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn
    để làm bài giảng điện tử. PowerPoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho
    phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện
    19

Video tương quan

ADVERTISEMENT

Nguồn: https://vh2.com.vn
Danh mục: Biểu mẫu thủ tục hành chính khác

Source: https://vh2.com.vn
Category : Tin Học