Lý thuyết Dòng điện trong chân không hay, chi tiết nhất Bài viết Lý thuyết Dòng điện trong chân không với giải pháp giải cụ thể giúp học viên ôn...
Tạn mạn về Biểu đồ tần số đáp tuyến – Hướng dẫn đọc và sử dụng
Biểu đồ phổ tần đáp tuyến (Frequency response graph) – Một công cụ mà trang review này sử dụng khá nhiều. Và không chỉ ở đây, mà cả cộng đồng Audio di động quốc tế cũng nhắc đến thứ này. Nhưng, đó là cái gì vậy?
Là những dòng ngoằn nghèo trên khung? Là nỗi sợ của các nhà sản xuất? Tư liệu của một vài thằng tự thẩm đi giả lập lại trong đầu? Hay là một dụng cụ có giá trị trong ngành nghiên cứu âm học?
Câu hỏi thì rất nhiều, nhưng nếu để xét về tư liệu mà người Việt viết thì lại ít. Với phong trào gần đây của cộng đồng quốc tế, nhiều bác mới vào thú chơi này chắc cũng sẽ không khỏi băn khoăn.
Cũng điên là vì dân có hiểu biết không phải là không có, nhưng để mà thật sự viết ra nhiều ông… lười.
Thôi được rồi, em thua được chưa… Sau mấy tháng lận bị hỏi liên tục thì yêu cầu của các bác đây: thằng mắc dịch dí đít ở blog này sẽ cố gắng giải thích cho các bác tất tần tật cơ bản về Frequency Response graph.
Thắt dây lưng và chuẩn bị đi các đồng chí. Bài viết này sẽ có rất nhiều điều để nói đây 😉
Trước khi đọc bài viết, nếu đây là lần đầu vào trang của những bác, xin hãy đọc trước bài này trước khi đưa ra phản hồi về bài biết của em .
Lưu ý: Bài viết này sẽ có một vài câu từ sai so với ngữ pháp tiếng Việt, thường em ko nói điều này nhưng các bác theo blog biết em chuyên viết bài bằng Tiếng Anh hơn là Việt rồi đấy
Nếu bác nào muốn hỏi em sau bài viết này, hoàn toàn có thể bấm vào nút dưới đây để vào Discord của em hóng trà bàn đạo 🙂
I. Khái niệm cơ bản
1. Biều đồ phổ tần đáp tuyến là cái gì thế?
Chắc hẳn những bác qua blog này đều đã nhìn thấy 1 thứ dăm ba kiểu như này rồi .
Đây là một Biểu đồ phổ tần đáp tuyến hay tiếng anh là “Frequency Response graph”. Chức năng chính của nó là ghi lại áp suất âm thanh mà một thiết bị phát âm như tai nghe/loa/headphone tại một dải tần số nhất định. Tai khác nhau thì đáp tuyến sẽ khác nhau và Biểu đồ Phổ tần đáp tuyến là nhân tố ghi lại điều đó.
Một phổ tần đáp tuyến cũng sẽ có nhiều cách để ghi lại, tuy nhiên với REW ( RoomEQ Wizard ) thì chúng thường được ghi lại bằng cách quét một âm sóng sin rồi ghi lại độ lớn của từng bậc tần số bằng microphone. Nếu những bác không hiểu đó là gì thì hoàn toàn có thể nghe qua cái này .
Tất nhiên, đây không chỉ là cách duy nhất, với một vài công cụ/phần mềm khác, ta có thể sự dụng âm nhiễu trắng (White noise) hay nhiễu hồng (Pink noise). Nhưng ta sẽ không bàn đến cái đó ở đây.
Với 1 biểu đồ phổ tần đáp tuyến ( Em sẽ gọi tắt là Biểu đồ đáp tuyến ), thì trục tung ( dọc ) sẽ luyên ghi lại áp suất âm thanh mà Microphone nhận được, trục hoành thì sẽ là tần số. Một Biểu đồ đáp tuyến do em cấp sẽ luyên được màn biểu diễn trong khoảng chừng từ 20H z cho đến 20 kHz, hay nói cách khác trong khoảng chừng con người nghe được .Một đáp tuyến có quan hệ mật thiết với việc biểu lộ hòa âm của nhạc cụ, nên nhớ, khi một nốt nhạc cất lên thì không chỉ tần số của nốt nhạc đó được cất lên mà đến cả những hòa âm của nó cũng vậy .Bác nào học Vật Lí rồi chắc sẽ nhớ đến bài ” Đặc trưng vật lí của âm ” đấy .Dù sao em nghĩ nhiều bác có học nhưng chắc chưa chứng kiến hiệu ứng thế nào. Giả sử như tiếng Violin đang cất lên nốt ở tần số 440H z ( Họa âm cơ bản ) thì những tần số tiếp theo tại 880H z, 1320H z … sẽ được cất lên theo .Nhớ cái này vì tí nữa sẽ cần .
2. Tốt, vậy đọc nó như thế nào?
Ừ … giờ đây mới mở màn đau đầu này .Trước tiên thì em sẽ triển khai nghiên cứu và phân tích biểu đồ đầu bài viết trước .
Cách thể hiện Biểu đồ:
- Trục hoành chạy từ 20Hz – 20000Hz theo cách chia logarit (log scale)
- Trục tung từ 60dB cho đến 110dB
- Làm mượt ở mức 1/12
Phân tích dữ liệu từ 20Hz đến 20000Hz:
- Phẳng từ 20Hz đến 800Hz
- Dâng lên khoảng 10dB và đạt đỉnh tại 2700Hz, sau đó tụt dốc
- Đạt tới 1 đỉnh khác tại 11000Hz, 15000Hz và 17000Hz
Cơ bản chỉ thế thôi. Em chia việc phân tích của em ra làm 2 phần: Biểu diễn và Dữ liệu. Hai cái này khá là quan trọng và đúng ra nên hiểu cùng 1 lúc, nhưng để hiểu ảnh hưởng của cách biểu diễn, thì em sẽ nói sơ qua về cách em phân tích phổ theo cách nhìn chung trước đã.
2.1 Phân tích dữ liệu
Nếu phải nghiên cứu và phân tích ra chất âm của con tai này thì nhiều bác sẽ cho con Etymotic này có bass phẳng và nhấn tại dải trung cao và thụt dải treble. Về cơ bản thì em không phản đối việc nghiên cứu và phân tích như vậy, nhưng em thì sẽ gói gọn lại trong 1 câu : ” Chất âm trung tính kiểu Diffuse Field ” .
Diffuse field, trung tính? Cái đó là gì đấy, giải trung cao? Chú vừa tả dải cao đấy thằng ngu ạ
Nói đúng thật ra thì một cái mic không nói dối, nhưng cách phân tích sẽ khác nhau với mỗi người. Đâm ra nhiều bác mới gặp vấn đề khi nghe người khác mô tả.
Tất nhiên là ta có một quy chuẩn để nói là một người phân tích phổ sai, nhưng ở giữa đó thì khá là khách quan thôi.
Nhưng dù sao để cho tránh rối rắm, và cùng là để phục vụ việc những bác hiểu bài viết của em hơn, đây là cách em thường chia phổ .
- Dải trầm thấp (Subbass): 20Hz – 100Hz
- Dải trầm trung (Midbass): 100Hz – 250Hz
- Dải trung thấp (Lower midrange): 250Hz – 700Hz
- Dải trung (Midrange): 700Hz – 2000Hz
- Dải trung cao (Higher midrange): 2000Hz ~ 5500Hz
- Dải cao thấp (Lower treble): ~5500Hz ~ 7000Hz
- Dải cao trung (Mid treble): ~7000Hz – 10000Hz
- Dải cao (High treble): 10000Hz+
Thông thường em coi những số lượng này chỉ mang tính tượng trưng, trong nhiều trường hợp thì em sẽ dựa vào cách chia như thế này, nhưng tùy thuộc vào tai mà những số lượng này sẽ xê dịch. Ví dụ :Với Sony IER-Z1R ví dụ điển hình, em coi dải trầm từ 20H z cho đến 300H z. Tức là dấn vào 50H z vào dải trung. Cái này thì cơ bản thôi, dải bass của của Z1R dâng lên từ 300H z trở xuống mà :Với Campfire Polaris. Em coi dải bass của Polaris nằm ở 20H z cho đến 250H z như thường. Và dải Trung thấp sẽ chạy từ 250H z đến 800H z, tức dấn vào 100H z so với chuẩn em đề bên trên .Đại khái là những bác hiểu rồi đấy. Tùy vào đặc tính của con tai mà em có biến hóa cái khung này liên tục. Điều này giúp em linh động trong quy trình diễn đạt đặc tính tai nghe và phân phối kịp thời với những người khác khi bàn luận .Tất nhiên, mọi việc nghiên cứu và phân tích tài liệu này đều khá thuận tiện trên website của em, nhưng ngoài việc em minh bạch đưa ra cách biểu lộ tài liệu thì còn 1 tác nhân nữa .
2.2 Cách trình bày dữ liệu
Nhận biết được cách trình bày dữ liệu của Biều đố đáp tuyến thường là điều đầu tiên em làm và em khuyên luôn tuyệt đối phải nhớ để ý cái này trước tiên. Trên thị trường không hề thiếu hãng tai nghe trình bày phổ khá là kém kể cả họ có ý đồ che giấu khách hàng hay không. Bằng không các bác sẽ vướng phải một số trường hợp như thế này.
Đây là 1 graph do em dựng bừa lên, nếu nhìn không thì Tai nghe ” A ” mang thiên hướng khá phẳng, và mở màn hạ dần từ 1500H z trở đi. Nó nhỉnh hơn con ” Hãng B ” ( Ừ, nó tên ” Hãng B ” ) ở dải cao một chút ít .
Cái điều này nhìn sẽ không sao, cho đến khi các bác phát hiện ra em đang để trục tung chạy từ -200dB cho đến 185dB. CÁCH BIỆT GIỮA KHOẢNG THẤP NHẤT VÀ CAO NHẤT QUÁ LỚN.
Giờ chuyện gì xảy ra nếu như em hạ nó về một scale nhỏ hơn?
Thử lấy từ 20 đến 100 dB nhéBỏ qua việc tai 2 phổ này trọn vẹn nhìn khá là lộn xộn đi ( Em vẽ bừa mà ). Các bác hoàn toàn có thể thấy tác động ảnh hưởng của việc đặt trục tung nó ảnh hưởng tác động đến việc trình diễn phổ rồi đấy .Ngoài cái đó ra, một số ít hãng tuy hoàn toàn có thể sử dụng trục tung nhìn một cách có điều độ, nhưng vẫn còn 1 tác nhân nữa .Để cho sinh động, em sẽ lấy biểu đồ này làm ví dụ :Wow, nhìn này, phổ này có bass dâng lên từ 300H z trở xuống, từ 800H z cũng có dâng lên tầm 10 – 12 dB cho đến khi hạ xuống ở 8 kHz. Phân tích quá dễ phải không ?Ừ, những bác có nhìn thấy quen không ? Nó chính là phổ của con IER-Z1R mà em vừa cho những bác xem ở đầu bài đấy
Thao tác mà em vừa cho các bác xem là Smoothing hay là “Làm mượt”. Việc này không phải là hiếm trong lĩnh vực đo đạc. Nhưng nếu quá tay thì hệ quả như trên đấy. Hệ quả? Nhiều thông tin bị mất đi, dẫn đến việc phân tích dữ liệu không được toàn vẹn.
Như em đã nói, không hề có gì xấu trong việc thực thi thao tác làm mượt cả, trong thực tiễn nếu không có nó thì một số ít công vụ như nghiên cứu và phân tích tài liệu đo loa / phòng sẽ hơi đau đầu. Nhưng với thiết bị hệ pha cực tiểu ( aka Headphone hay IEMs ), thì việc làm mượt thường không nhất thiết phải mạnh tay. Hoặc thậm chí còn hoàn toàn có thể bỏ hẳn, nhưng cũng khá tùy .
Giả sử như nếu việc đo đáp tuyến được thực hiện bằng phường pháp chạy âm nhiễu trắng/hồng (White/Pink Noise): thực hiện phương thức này thường yêu cầu xếp chồng sau đó lấy trung bình – Cách này tốn nhiều thời gian hơn để có 1 phổ đễ đọc.
Việc làm mượt phổ giúp tiết kiệm thời gian cho việc này
Việc trình diễn phổ sẽ tùy theo từng reviewer hay nhà phân phối, so với em thì em luôn giữ phổ em trình diễn như đã đưa ở trên .
- Trục hoành chạy từ 20Hz – 20000Hz theo cách chia logarit (log scale)
- Trục tung từ 60dB cho đến 110dB
- Làm mượt ở mức 1/12
Giữ cách trình bày dữ liệu đẹp (hoặc ít nhất là đọc được) là điều khá là quan trọng trong cung cấp thông tin một cách minh bạch cho người đọc. Nên các bác đọc phổ luôn nhớ để ý những điều này và tự hỏi về những yếu tố trên trước khi tiến hành đọc dự liệu.
3. Đối chiếu dữ liệu
Một trong nhưng lợi thế của việc sử dụng phổ là việc so sánh tài liệu và Dự kiến chất âm. Tất nhiên điều này chỉ mang tính tương đối nhưng không ít gì cũng là thông tin có ích cho nhưng ai muốn mua hàng .Cơ sở tài liệu đáp tuyến của em có cài sẵn một công cụ được cho phép những bác so sánh và so sánh dư liệu những phổ tai khác nhau với hơn 300 + mẫu đo được .Truy cập tại đây : https://vh2.com.vn/vn/graph/tool/Thao tác so sánh phổ cũng nhu yếu 1 số ít hiểu biết nhất định, nhưng để điểm qua những cái cơ bản thì .
3.1 Chuẩn hóa (Normalization)
Việc chuẩn hóa nói ở đây là đưa những biểu đồ đáp tuyến so sánh với nhau theo 1 mốc nào đó. Thông thường với công cụ trên website của em, mặc định việc chuẩn hóa sẽ xét theo độ lớn nghe được .Theo hướng tiếp cận này thì thường mọi thứ có vẻ như rõ hơn rồi. Với 1 số người, việc chuẩn hóa được thực thi dưới hướng khác nhau nhằm mục đích lấy được nhiều thông tin nhất hoàn toàn có thể. Việc chuẩn hóa ra sao trọn vẹn nhờ vào cảm tính của những bác .
Một lần nữa em nói lại, ta đang dự đoán, chứ không nghe, thế nên những thao tác này chỉ giúp cho các bác chuẩn bị điều gì có thể xảy ra nếu các bác nghe thôi.
Còn nếu nghe rồi thì đây là một công cụ hữu hiệu để xác thực lại nguyên nhân, với những ai có chơi EQ thì càng hữu dụng trong việc xử lý vấn đề trong dải âm.
Hãy lấy ví dụ với việc em so sánh giữa 64A udio U12t và 64A udio Fourte Noir nhé .Trong việc so sánh đáp tuyến này thì những bác hoàn toàn có thể Tóm lại rằng Fourte Noir có dải trung thụt và một đỉnh treble trên 13 kHz so với U12t. Cái cách nhìn này thoạt qua thì không sai trong trường hợp em phải nghe 2 con tai với mức âm lượng như nhau .Nhưng nếu xét theo cảm nhận thực tiễn của em thì
- Fourte Noir không hề có cảm giác thụt mid như graph, thậm chí uppermid khá tiến
- Fourte Noir khá là ấm và hơi ồm
- Phần dải cao thì khá chuẩn, mặc dù đáp tuyến tại đó sẽ gặp vấn đề về độ chính xác. (Sẽ đề cập sau)
- U12t có phần hiền hơn tẹo
Biết những điều này, thay vì chuẩn hóa cùng âm lượng, em chuẩn hóa lại phổ tại mức 2000H z vì cả hai con tai đều có cùng pinna gain tại đóSo sánh này gần hơn so với cảm nhận của em giữa Fourte Noir và U12t .Ngoài việc này ra, nhiều reviewer cũng thường có 1 ” chuẩn vàng ” trong cách trình diễn nhưng phổ như thế này – chuẩn hóa tại 1000H z .Ý em là … nó nhìn ổn, nhưng trong một vài trường hợp thì sẽ có cách tối ưu hơn. Nếu những bác chuyển sang chuẩn hóa chung mức âm lượng thì cũng chẳng khá khẩm gì hơnGiờ chú ý nhé, cả 4 mẫu Voyager 3 này đều có chung một dải bass, thành ra trong so sánh này, cái mà ta muốn biểu lộ hơn sẽ là mức chênh lệch từ dải mid trở đi. Việc chuẩn hóa sẽ thực thi tại 200H z
Tốt hơn rồi, và điều này cũng giúp việc so sánh đơn giản hơn một tẹo.
3.1.1 Mở rộng
Một đáp tuyến có quan hệ mật thiết với việc thể hiện hòa âm của nhạc cụ, nên nhớ, khi một nốt nhạc cất lên thì không chỉ tần số của nốt nhạc đó được cất lên mà đến cả các hòa âm của nó cũng vậy.
Thể hiện như thế nào thì giờ em sẽ cho những bác thấy. Hãy lấy thử ví dụ về dây đàn Violin lúc nãy được kéo và ghi lại giữa Sony IER-Z1R và ThieAudio Legacy 2 nhéSo sánh họa âm và đáp tuyến giữa ThieAudio Legacy 2 và Sony IER-Z1RBằng việc triển khai thao tác chuẩn hóa tại họa âm cơ bản ( 440H z ), những bác hoàn toàn có thể thấy độ chênh lệch của những họa âm với nhau cũng được biểu lộ trên đáp tuyến
- Họa âm bậc 2 (880Hz) và 3 (1320Hz) có phần nhỉnh hơn tại IER-Z1R: Có thể hiện trên phổ
- Họa âm bậc 5, 6, 7 thấp hơn: Có thể hiện trên phổ (2000Hz – ~3500Hz)
- Các họa âm có tần số từ 5kHz của ThieAudio Legacy 2 trở lên hầu như đều thấp hơn IER-Z1R: Có thể hiện trên phổ
Như đã nói rồi đấy, Việc ghi lại đáp tuyến của tai nghe sẽ giúp những bác hình dùng đại khái nhạc cụ được biểu lộ ra làm sao ở một mức nào đó. Và đồng thời đây cũng là 1 công cụ mạnh để tương hỗ cho những bác nếu những bác muốn EQ. Nhưng, em sẽ viết một bài về cái đó sau .
3.2 Bù trừ (Compensation)
Thao tác bù trừ ( Compensation ) thường được thực thi nhằm mục đích để thấy rõ hơn sự độc lạ giữa những đáp tuyến với nhau. Cái này thì thường dùng trong 1 phổ tươi ( Raw graph ) và để so sánh với những Đáp tuyến tiềm năng ( Frequency Response Target ) .
Phổ tươi (Raw graph) là gì? Tức là phổ lấy gốc từ thiết bị đo và chưa hề qua việc xử lý dữ liệu. Toàn bộ Biểu đồ đáp tuyến mà em cho các bác xem từ nãy giờ đều là phổ tươi theo bộ đo chuẩn IEC 60318-4 của em.
Việc giải thích về “Đáp tuyến mục tiêu” không nhất thiết phải đọc nhưng em sẽ đề cập sau.
Cái này chắc không phải lý giải nhiều, bản thân việc bù trừ diễn ra đúng như tên gọi của nó : Lấy 1 đáp tuyến làm gốc, sau đó triển khai việc cộng trừ với những đáp tuyến khác. Kết quả cho ra là một biểu đồ so sánh mà những bác chỉ cần nghĩ ” phẳng ” = gần với đáp tuyến gốc .
Ừ, nếu bác đang nghĩ đến cái này có liên quan gì đến việc trình bày phổ hay không thì đúng rồi đấy. Nhà sản xuất hoàn toàn có thể thay đổi phổ được trình bày bằng phương pháp bù trừ. Nếu có biểu hiện sử dụng bù trừ các bác nên yêu cầu hoặc kiếm nguồn đo uy tín mà các bác biết.
Nếu những bác đọc được đến đây thì em nghĩ những bác đã nắm rõ cơ bản rồi đấy, tất yếu, nếu chỉ là trong mạng lưới hệ thống phổ em đo, những bác trọn vẹn hoàn toàn có thể hoàn toàn có thể đọc được đến mức nào đó .
Nhưng tại sao lại phức tạp thế này? Tại sao lại có vụ phổ tươi ở đây? Tại sao phổ tươi lại không “phẳng”.
Đúng rồi đấy, ” Phẳng ” trên phổ đo IEM hay Headphone không có nghĩa là thật sự phẳng với tai những bác đâu. Nếu muốn biết nguyên do, những bác hoàn toàn có thể đọc tiếp bên dưới .
II. Head-Related Transfer Function (HRTF), đáp tuyến mục tiêu và hệ thống đo đáp tuyến dành cho Tai nghe/Headphone
1. Tản mạn về Head-Related Transfer Function (Hàm truyền liên quan tới vùng đầu)
Gu mỗi người khác nhau, mỗi người nghe khác nhau. Cái này thì ta không hề có gì để bàn cãi rồi. Thế nhưng trong thực tiễn thì đó không chỉ là điều duy nhất, thực ra, cách mà những bác tiếp đón âm thanh tùy thuộc vào tín hiệu xuất phát từ đâu mà cũng sẽ khác .Cái này chắc những bác chơi loa hoàn toàn có thể hiểu được đôi phần, nhưng em đang không nói đến vị trí loa ở đây, với IEM hay Headphone, phương pháp tune âm cũng sẽ cực kỳ khác so với môi trường tự nhiên tự do ( Aka, trong 1 cái phòng ) do chính phong cách thiết kế của những thiết bị này .
Head-Related Tranfer Function (viết tắt là HRTF) hay em tạm dịch là (Hàm truyền liên quan đến vùng đầu) biểu thị đáp tuyến âm thanh mà tai người nhận được. Em biết đây hoàn toàn là một khái niệm khá xa lạ với nhiều bác và nhiều ông marketing bắt đầu đánh tráo khái niệm cái này sang một kiểu công nghê mới.
Không, cái này đơn giản chỉ nói về phần tín hiệu âm thanh mà tai bác nhận được thôi. Nhìn chung thì mỗi người đều có 1 HRTF khác nhau, nhưng ảnh hưởng khi bỏ qua một vài giá trị thì tương đồng nhau.
Tại sao? Âm thanh khi đến tai bác dội vào đầu, vào thân, vào người… chúng khuếch đại, triệt tiêu lẫn nhau. Kết quả là cho đến khi màng nhĩ các bác rung thì ta thu được 1 tín hiệu cực kì khác so với 1 cái mic thu được.
Hay nói cách khác, điều này đồng nghĩa với việc nếu bác bỏ bất kì một bộ phận trên cơ thể người, tín hiệu thu được so với 1 mic trường tự do sẽ có chênh lệch khá lớn. IEM và Headphone là hai ví dụ điển hình vì tín hiệu âm thanh hoàn toàn bỏ qua phần đầu, và thậm chí là cả vành tai của các bác.
Credit: Innerfidelity
Những hao hụt đó thường sẽ được các nhà tune tai họ dâng lên để bù lại: Với In-Ears, đó được gọi là Pinna gain (Bù phần vành tai)
Với Headphone, đó được gọi là Head gain (Bù phần đầu)
Ngoài lề: Việc đo HRTF riêng cho từng người là hoàn toàn có thể, nhưng nó không chỉ là câu truyện đơn giản của việc nhét 1 cái mic nhỏ xíu vào trong tai thôi đâu. Nhưng đó là câu truyện cho một buổi khác.
2. Sự hỗn loạn của các đáp tuyến mục tiêu
Gu mỗi người khác nhau, mỗi người nghe khác nhau. Cái này thì ta không hề có gì để bàn cãi rồi.
Cộng thêm cả kiến thức về HRTF mà em vừa giới thiệu cho các bác và giờ ta có một vấn đề: Thế nào là phẳng?
Như đã nói, dưới ảnh hưởng tác động của việc bỏ lỡ những bộ phận khung hình do phong cách thiết kế của IEM / Headphone, việc tín hiệu đến tai những bác sẽ không hề phẳng và quy trình tune âm một phần cùng nhằm mục đích bù trừ cho những hao hụt này. Phổ tươi cho những bác biết được những thao tác bù trừ đó được triển khai thế nào ( nếu tài liệu đó tôn tại )Nói lại lần nữa, phổ tươi chỉ là biểu đồ đáp tuyến gốc đo ra từ thiết bị và không hề triển khai một thao tác điều khiển và tinh chỉnh giá trị nào .Tất nhiên, biết cái này vẫn chưa vấn đáp câu hỏi đề bài, thành ra ta mới có thao tác ” Bù trừ ” ( Compensation )Việc bù trừ theo một đáp tuyến tiềm năng lý tưởng nhất hướng tới việc biểu lộ 1 graph theo hướng ” phẳng ” theo cách đo trong phòng. Tất nhiên không phải mọi đáp tuyến tiềm năng đều hướng đến việc bộc lộ phổ theo hướng này ; Banbeucmas Preference Target của em là một ví dụ. Đáp tuyến tiềm năng em đề ra vốn là 1 dải âm nhằm mục đích diễn đạt màu âm mà em đã biết mình đã tự do, chứ không phải là 1 đáp tuyến tiềm năng để xác lập thế nào là ” phẳng ” .Như đã nói, ” Phẳng ” trên phổ tươi không phải là ” Phẳng ” khi tín hiệu đến tai. Nếu bác công nhận việc ” phẳng ” = ” trung tính ” với 1 phổ đo từ mic trường tự do ( aka trong 1 căn phòng ) thì giới khoa học cũng sinh ra muôn hình vạn trạng Đáp tuyến tiềm năng để tái hiện điều này với IEM / Headphone .Ngay cả trong khoanh vùng phạm vi xác lập đáp tuyến phẳng trong thiên nhiên và môi trường phân tán ( Diffuse Field ) và ta có một đống hiệu quả luôn này. Với công cụ so sánh phổ tần thì em có cấp 2 đáp tuyến DF của Hammershøi và Møller và Etymotic .Đáp tuyến DF của Hammershøi & MøllerĐáp tuyến DF của EtymoticNgoài ra thì trong những năm gần đây nổi lên một đáp tuyến mới đến từ viện nghiên cứu và điều tra Harman International do tiến sỹ Sean Olive tăng trưởng. Dải âm của Harman liên tục được tinh chỉnh và điều khiển vì tiềm năng chính của nó vốn để tìm đáp tuyến mà nhiều người thấy ổn nhất, và điều này đổi khác từng năm .Đáp tuyến mục tiêu Harman bản 2019v2Với những điều mà em kể trên thì chắc những bác cũng nắm được tương đối rồi. Bản thân việc bù trừ với những dải âm không nhất thiết sẽ thông dịch được ra thành ” phẳng ” khi nghe. Cũng như trung tính cũng hoàn toàn có thể coi thành nhiều khoảng chừng thay vì 1 giá trị vàng nhất định .Đó là nguyên do rất nhiều công cụ so sánh phổ được cho phép những bác sử dụng nhiều đáp tuyến tiềm năng với nhau nhằm mục đích cung ứng những như cầu của nhiều người .Và nhắc đến việc ta có nhiều chuẩn đáp tuyến, việc có một công cụ để đo thiết bị trợ thính hay headphone cũng phức tạp không kém .
2.2 Giả lập đo tín hiệu âm thanh
Tất nhiên, nếu xét về khoảng chừng headphone / IEM thì những bác dùng gì đo cũng được. Và nếu phải nói đến trình DIY thì những thánh quốc tế phát minh sáng tạo lắmÔ hô nhìn giống ngôi nhà quá – Credit: DIY-Audio HeavenĐây chỉ là một trong những cách những bác đo tín hiệu âm thanh từ Headphone thôi ; một số ít bộ đo nhà làm này thì nhìn khá buồn cười và không ” thực tiễn ” lắm rồi. Bác muốn đo tín hiệu đến màng nhĩ, tức là phải xem hiệu ứng của âm thanh qua những bộ phận khung hình. Một tiêu chuẩn như thế sống sót và đã là thứ mà giời điều tra và nghiên cứu đã tăng trưởng xuyên suốt hơn 30 năm nay. Nhưng để nói về giá tiền thì … Khóc .Giả lập thân mình và đầu B&K 4128 – Credit: acousticfield.blogspot.comTất nhiên nếu phải ví trong khuôn khổ headphone và IEM / Earbuds, thì ta hoàn toàn có thể bỏ phần thân – âm thanh lúc đó sẽ chỉ chạy vào vành tai và lỗ tai thôi mà. Điều khá đáng tiếc là kể cả có bỏ những bộ phận đó đi thì giá tiền vẫn … KhócThực chất thì với hàng rẻ nhất thì ta có MiniDSP EARS. Với giá tiền tầm 5 triệu thì những bác có hẳn cả 1 setup có cả vành tai lẫn mic đằng sau. Quá rẻ, quá tuyệt với phải không ?Credit: MiniDSP
Khá là đáng tiếc là hệ thống này có khá là nhiều nhược điểm. Từ việc vành tai quá cứng, ống tai được thiết kế cực kì thiếu thực tế so với tai người và trên hết là nó cực kì thiếu tính ổn định. Thực hiện đo đạc trên bộ đo này với tần suất và mật độ như em (Một người đã đo và nghe hơn 300 mẫu tai khác nhau) là một thảm họa vì giữ cho tai cố định so với các mẫu khác là cả một cực hình. Đây là còn chưa kể file bù trù được cung cấp cũng khá là nực cười.
Tại sao phổ bù trừ DF cho IEM lại roll off hết thế kia? Nghe khá vô lý – Credit: csglinux (Head-fi)
Cũng phải nói trước là lựa chọn như MiniDSP không tồi cho việc so sánh trong cùng một bộ đo và cùng 1 phương thức thực hiện (Và như đã nói ở trên… MiniDSP EARS khá tù về vụ này). Thực tế thì mọi so sánh đều tối ưu nhất nếu rơi vào chung 1 môi trường.
Nhưng với tỷ lệ tài liệu đo đạc kiếm được thời nay, em không khuyên sử dụng MiniDSP EARS lắm, nó không theo một chuẩn đo nào nên tài liệu để so sánh trên mạng không thật sự nhiều .
Và thật sự nếu ai đọc hướng dẫn sử dụng cũng nên biết đến MiniDSP cũng không khuyên sử dụng thiết bị này trong việc nghiên cứu và phát triển lắm.
Nhắc đến chuẩn đo, có lẽ rằng cùng đến lúc rồi .
2.3 Chuẩn đo dành cho tai nghe nhét tai IEM (IEC 60318-4)
Tất nhiên là trong suốt thời hạn nghành nghề dịch vụ này tăng trưởng thì đã luôn có 1 chuẩn đo được thống nhất và hoàn thành xong cho tới thời nay. IEC 60318 – 4 ( Tiền thân là IEC 60711 ) là mã chuẩn đo được Ủy ban kĩ thuật Điện Quốc Tế ( International Electrotechnical Commission – IEC ) đề ra dành cho giả lập ống tai người. Thiết bị này hoàn toàn có thể sử dụng trong việc phong cách thiết kế thiết bị thính lực hay dùng trong nghiên cứu và điều tra. Banbeucmas Hobby Lounge cũng sử dụng một thiết bị tương tự như như vậy .
Cũng phải nói trước là em sẽ chỉ nói đến giả lập ống tai ở đây. Việc làm 1 thiết bị đo tai nếu biết đủ thông tin làm có thể thực hiện được nhưng em sẽ không ban đến điều đó trong bài viết này. Nếu các bác muốn biết thêm thông tin có thể tra trang chính của cơ sở dữ liệu đo mà em duy trì
Nghe thì có vẻ hơi thô. Dù sao thì cái thứ này cũng chỉ là một cái ống sắt được phong cách thiết kế để đo tai IEM thôi, câu truyện chưa dừng ở đó nếu những bác định lắp một cái giả lập vành tai để đo headphone nhưng đấy lại là cả 1 mớ bòng bong khác mà em ko muốn kể đến ở đây .
Dù sao thì việc chuẩn IEC 60318-4 được xây dựng trên những đặc tính này cũng sẽ ảnh hưởng đến phổ tươi sau khi đo. Nhưng để nói chung thì tại dải cao, biểu đồ đáp tuyến từ thiết bị đo này sẽ luôn có 1 đỉnh nhọn tùy vào con tai đo được (Đỉnh cộng hưởng). Càng đút sâu, thì cái đỉnh này càng dịch về phía tần số cao hơn.
Ảnh hưởng này thực tiễn tai người cũng có ghi nhận, nhưng ở một mức thấp hơn rất nhiều. Đây cũng là nguyên do tại sao việc thay tip sẽ có biến hóa ở dải cao, sau cùng thì với một vài loại tip khác nhau thì đỉnh cộng hưởng cũng sẽ biến hóa theo .
Dù sao thì với cơ sơ dữ liệu mà em cung cấp, mọi đỉnh cộng hưởng đều sẽ được cố định ở mức gần 8000Hz nếu trường hợp cho phép.
2.4 Tản mạn về thiết bị đo chất lượng cao
Tuy bộ đo của em vẫn nằm trong khuôn khổ đồng ý được với chuẩn mà IEC đề ra, yếu tố ở đây là chính những bộ đo này vẫn có đặc tính riêng của nó. Đây là một yếu tố mà rất nhiều dân chơi Audio có lao vào vào chủ nghĩa khách quan gặp phải và giới điều tra và nghiên cứu cũng cố tìm giải pháp .Một trong những cách tiếp cận tiêu biểu vượt trội để giải quyết và xử lý yếu tố mà những thiết bị đo IEC 711 truyền thống cuội nguồn mặc phải là thiết bị đo ” có độ phân giải cao ” RA040X của GRAS. Mục tiêu chính của những thiết bị này là là giảm độ lớn của đỉnh cộng hưởng .Thiết bị này cũng được GRAS tiếp thị bảo vệ việc tham chiếu với đáp tuyến đo bằng chuẩn IEC 60318 – 4 gốc vẫn hoàn toàn có thể diễn ra được miễn là người dùng biết được những đặc tính trên .Và đồng thời, đây cũng là chuẩn mà Harman sử dụng để tăng trưởng nghiên cứu và điều tra của họ, cũng là nguyên do chính tại sao việc sử dụng đáp tuyến của Harman ( và nhiều đáp tuyến khoa học khác ) hoàn toàn có thể sử dụng cùng với khá nhiều cơ sở tài liệu đo dải âm mà những bác tìm thấy trong hội đồng lúc bấy giờ .So sánh giữa giả lập ống tai người IEC 60318-4 và RA040X
Lưu ý: Dữ liệu này được tính toán từ các mẫu tai khác nhau mặc dù cùng loại nên giá trị sẽ có chênh lệch cao hơn so với cùng 1 mẫu tai. Sắp tới em sẽ gửi một vài con tai em đo ra một viện nghiên cứu để có phân tích chuẩn xác hơn.
Tất nhiên là kể cả một thiết bị đo chất lượng cao thì cũng vấn sẽ gặp một vài quan điểm trái chiều. GRAS tập trung chuyên sâu vào giảm đỉnh cộng hướng đã rấy lên câu hỏi liệu thiết bị đo này có thật sự đúng mực hơn không hay chỉ giúp phần đọc tài liệu dễ hơn. Đây là còn chưa kể việc chuẩn IEC 60318 – 4 vốn được GRAS dựa vào vẫn chưa được kiểm chứng trọn vẹn về độ đúng mực dưới 100H z [ 1 ]Gần đây thì cũng có 1 chuẩn mới vốn sinh ra để xử lý 2 yếu tố này cùng 1 lúc : Thiết bị giả lập thân mình và đâu Brüel và Kjær 5128. Thay vì sử dụng ống sắt như 60318 – 4, thiết bị này ( Chính xác hơn là B&K 4620 ) dựa vào mô phỏng tài liệu trong ống tai người rồi lấy trung bình. [ 2 ]Tuy nhiên đây là 1 chuẩn mới và hiện tại vẫn còn khá nhiều công cuộc để tăng trưởng so với chuẩn đo đã qua hoàn thành xong và sử dụng trong khoảng chừng 40 năm. Việc nó ” đúng mực ” thế nào và trọn vẹn hoàn toàn có thể đáng tin cậy trong điều tra và nghiên cứu và tăng trưởng hay không vẫn còn phải chờ .
Lời kết:
Xét cho cùng thì với độ tâm linh của thú chơi Audio, phổ tần cung ứng cũng chỉ là 1 một công cụ Giao hàng cho việc nhìn nhận tai nghe cũng như dành cho mua hàng .Bài viết này chỉ mang tính tìm hiểu thêm bắt đầu cho những ai có hứng thú, còn nếu muốn có thêm kinh nghiệm tay nghề đọc, thì ta cũng phải song song với việc nghe. Chịu khó nghe và tìm hiểu và khám phá thì những bác sẽ tối ưu được công cụ này hết mức .Hi vọng những bác đã học được điều gì đó mới trong bài viết này, còn giờ em đi ăn tối đây
À vâng có Kato với Bravery rồi, nhưng chắc đợi cuối tháng em mới có bài viết đánh giá chất âm
Giấy tờ liên quan:
- IEC 60318-4 Ed. 1.0 (2010) Simulators of human head and ear – Part 4: Occluded-ear simulator for the measurement of earphones coupled to the ear by means of ear inserts tại International Electrotechnical Commission.
- Darkner, S., Sommer, S., Baandrup, A. O., Thomsen, C., & Jønsson, S. An Average of the Human Ear Canal: Recovering Acoustic Properties with Shape Analysis. Cornell Univ. Libr., từ ArXiv e-prints năm 2018.
Cảm ơn 2 bác đã ủng hộ Patreon của em
Not Daijoubu
Spacemanspiff
Source: https://vh2.com.vn
Category : Điện Tử