Networks Business Online Việt Nam & International VH2

I. KHÁI NIỆM VỀ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ – Tài liệu text

Đăng ngày 03 September, 2022 bởi admin
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản rất đầy đủ của tài liệu tại đây ( 1.07 MB, 158 trang )

Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học

Việc giám sát thường được tiến hành trong nội bộ do những người có trách nhiệm

quản lý tiến hành, họ cần biết:

• các đầu vào (nguồn lực) có được sử dụng hay không? và sử dụng như thế nào?

• các hoạt động có được tiến hành theo kế hoạch không? Có hoàn thành không? Như

thế nào? và

• các đầu ra có đạt được như mong đợi hay không?

Mục đích của giám sát là để:

hỗ trợ công tác quản lý;

– chỉ cho người quản lý thấy việc thực hiện diễn ra như thế nào, tiến độ thực hiện có

đúng kế hoạch không để điều chỉnh/cải tiến việc thực hiện;

giúp người quản lý xác định các dấu hiệu của sự chậm trễ và nguyên nhân của nó;

cảnh báo về các điều chỉnh cần thiết phải tiến hành nhằm đảm bảo sự thành công;

– giúp người quản lý lựa chọn các hành động cần thiết để đưa việc thực hiện về đúng

hướng như kế hoạch đã định, đáp ứng được các yêu cầu về số lượng và qui cách kỹ thuật như

đề ra trong mục tiêu.

Một hệ thống giám sát hiệu quả có thể cung cấp các thông tin phục vụ cho nhiều mục

đích khác nhau, có thể là các thông tin về tiến độ, về kết quả của các hoạt động, về nguyên

nhân dẫn đến thành công hoặc thất bại. Giám sát chỉ ra những chậm trễ và nguyên nhân của

nó để giúp nhà quản lý quyết định các hành động tiếp theo. Hoạt động giám sát được thực

hiện theo trình tự các bước, sử dụng các phương pháp và công cụ đặc trưng.

Nguồn thông tin và dữ liệu phục vụ giám sát bao gồm những tài liệu chuyên môn nội

bộ như các báo cáo nhiệm vụ, báo cáo tháng/quý, hồ sơ đào tạo, biên bản các cuộc họp, v.v.

2.

Đánh giá

Đánh giá là việc xem xét, rà soát một cách có hệ thống và khách quan về một chính

sách, chương trình, dự án đang triển khai hoặc đã hoàn thành. Đánh giá giúp làm rõ việc tuân

thủ, thực hiện trách nhiệm giải trình và phát hiện những khó khăn, vướng mắc nảy sinh nhằm

tìm biện pháp khắc phục hoặc phòng ngừa. Quá trình đánh giá cung cấp các thông tin đáng tin

cậy và hữu ích, cho phép rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc ra quyết định của cơ quan

quản lý nguồn lực. Đánh giá đôi khi được dùng để bao hàm cả việc giám sát nhưng thường thì

người ta sử dụng đánh giá theo nghĩa hẹp hơn là việc kiểm tra toàn diện các đầu ra và tác

động của một chương trình/dự án, việc nó đóng góp vào mục đích và mục tiêu của chương

trình/dự án đó như thế nào.

Đánh giá cung cấp bằng chứng về các chỉ tiêu và kết quả thực hiện, tìm cách giải

quyết các vấn đề trên cơ sở quan hệ nhân quả và tập trung chú ý vào kết cục và tác động.

Đánh giá trả lời các câu hỏi:

(i) “Vì sao?”, tức là cái gì đã gây ra các thay đổi đang được giám sát;

(ii) “Như thế nào?” tức là tiến trình nào đã dẫn đến các kết quả thành công hay thất bại;

(iii) “Việc tuân thủ và trách nhiệm đến đâu?”, tức là làm rõ các hoạt động đã lên kế

hoạch có được thực hiện theo kế hoạch hay không.

Đánh giá có những mục đích sau:

i.

Đánh giá, kiểm tra định kỳ 5 tiêu chí liên quan đến tình hình thực hiện: thích hợp;

hiệu suất; hiệu quả; tác động và tính bền vững (của một hoạt động, chương trình,

dự án) *.

10

Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học

Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học

ii.

Phân tích và làm rõ sự tương quan giữa kết quả đạt được trên thực tế so với mục

tiêu đã nêu trong văn bản được cấp thẩm quyền phê duyệt;

iii.

Xác định các vấn đề và những vướng mắc nảy sinh hoặc tiềm ẩn để khuyến nghị

các hành động khắc phục, giải pháp phòng ngừa hiệu quả;

iv.

Đảm bảo tuân thủ các qui trình, thủ tục quản lý;

v.

Cung cấp thông tin cho các bên liên quan về kết quả và tác động của chương trình,

dự án (kết quả và tác động đó có bền vững hay không);

vi.

Rút ra bài học kinh nghiệm cho việc lập kế hoạch và thiết kế các hoạt động,

chương trình, dự án tiếp theo và hoàn thiện các chính sách phát triển;

vii.

Tạo điều kiện thực hiện trách nhiệm giải trình, bao gồm cả việc cung cấp thông tin

cho công chúng.

Đánh giá được thực hiện theo trình tự các bước, sử dụng các phương pháp và công cụ

đặc trưng. Giám sát, đánh giá có thể thực hiện ở cấp vĩ mô, cấp hoạch định chính sách, và ở

cấp cơ sở.

* 5 tiêu chí của quá trình thực hiện

• Tính thích hợp: chương trình, chính sách hoặc dự án có giải quyết được các mục tiêu, yêu

cầu đã được xác định không? Sản phẩm của các chương trình, chính sách này có được chấp nhận

không?

• Hiệu suất: chúng ta có đang sử dụng nguồn lực có sẵn một cách khôn ngoan và hiệu

quả hay không? Số lượng các nguồn lực được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm có vượt quá

các chuẩn mực không?

• Hiệu quả: những đầu ra mong muốn có đạt được hay không? chương trình, chính sách

hoặc dự án có đạt được kết quả đề ra hay không? Mục tiêu hoặc một kết quả mong muốn có

đạt ở mức cao nhất với chi phí thấp nhất không?

• Ảnh hưởng/tác động: những mục tiêu rộng hơn có đạt được không? Những thay

đổi nào đã diễn ra lấy đích là các cá nhân và/hoặc cộng đồng? Hiệu quả đối với cộng đồng, xã

hội và môi trường do việc theo đuổi và đạt một mục tiêu.

• Tính bền vững: Ảnh hưởng/tác động mà chương trình, chính sách hoặc dự án tạo ra có

bền vững không? Liệu các cơ cấu và quy trình có được thiết lập để tồn tại bền vững không?

những lợi ích và thay đổi do chương trình hoặc dự án đem lại có được tiếp tục sau khi kết thúc

chương trình không?

Phân loại đánh giá

Tùy thuộc vào bản chất của chương trình và mục đích của việc đánh giá, người ta có

thể phân loại các hoạt động đánh giá theo các tiêu chí phân định khác nhau.

Nếu dựa vào đối tượng tiến hành việc đánh giá, ta có thể phân thành:

• Đánh giá nội bộ – Internal evaluation (đôi khi gọi là đánh giá trong): là khi việc

đánh giá liên quan đến một chương trình được thực hiện hoàn toàn trong cơ quan/tổ chức, do

những người ở cùng một cơ quan/tổ chức với những người quản lý chương trình thực hiện,

đôi khi có hợp tác với sự giúp đỡ của những người đánh giá bên ngoài;

• Đánh giá ngoài – external evaluation (còn gọi là đánh giá độc lập): là khi việc

đánh giá liên quan đến một chương trình mà việc thực hiện chương trình này do những người

ở ngoài cơ quan, (thường là những cán bộ đánh giá độc lập) tiến hành.

• Tự đánh giá – self-evaluation: là một hình thức đánh giá nội bộ do chỉ những

người thực hiện chương trình thực hiện; và

11

Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học

Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học

Nếu dựa vào mục đích sử dụng kết quả đánh giá, có thể chia ra:

• Đánh giá định hình: khi mục đích đánh giá là điều tra thực trạng

Loại đánh giá này bao gồm các hoạt động điều tra nhằm thu thập ý kiến, cải tiến và

đưa ra phương pháp tiếp cận mới, giúp cho việc thiết kế chương trình hoặc thực hiện chương

trình. Ví dụ: khi soạn thảo một cuốn sách giáo khoa mới, cuốn sách này cần được đánh giá ở

các giai đoạn khác nhau. Đầu tiên, việc soạn thảo nội dung được đưa ra tham khảo ý kiến của

các chuyên gia sư phạm. Sau đó, các phần khác nhau trong sách giáo khoa được đưa vào sử

dụng trên quy mô nhỏ. Bản đầu tiên của cuốn sách được đánh giá trong quá trình đưa vào

giảng dạy trên thực tế. Kết quả của quá trình đánh giá định hình có thể được sử dụng để từ đó

sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Đánh giá định hình còn mang tính phê bình và có thể dẫn

đến việc dừng quá trình thực hiện.

• Đánh giá tổng kết: Mục đích đánh giá này là rút ra các bài học kinh nghiệm cho

tương lai khi thực hiện xong một chính sách, chương trình, dự án.

• Đánh giá tác động: Mục đích đánh giá này là rút ra kết luận về những tác động, ảnh

hưởng và tính bền vững của một chương trình, chính sách, dự án (sau khi chương trình, chính

sách, dự án đó đã thực hiện xong một thời gian). Đánh giá tác động được dùng để đánh giá kết

quả cuối cùng. Tuy nhiên, theo lý thuyết về đánh giá, không nên phân biệt quá rạch ròi giữa

đánh giá định hình và đánh giá tác động vì bản chất việc ra quyết định cũng hiếm khi đưa ra

quyết định ‘dừng lại/tiếp tục’ một cách rõ ràng. Do đó, kết quả đánh giá tác động cũng có thể

dẫn đến việc dần dần đưa ra quyết định hoặc xây dựng chương trình.

Mối tương quan giữa giám sát và đánh giá

Giám sát và đánh giá đều là những công cụ quản lý, có chức năng khác nhau và

thường phục vụ cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Bảng 1 dưới đây cho thấy sự khác nhau

giữa GS và ĐG. Giám sát và đánh giá liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và quan

trọng như nhau. Cụ thể:

Giám sát cung cấp thông tin định tính và định lượng thông qua việc sử dụng những chỉ

số đã được lựa chọn và những thông tin này trở thành đầu vào cho hoạt động đánh giá.

Nếu chỉ có giám sát mà không có đánh giá thì chỉ giúp được chính sách, chương trình

đi đúng hướng; có cảnh báo sớm; tránh được thất thoát nhưng không thấy được tác

động của chúng, không rút ra được những bài học kinh nghiệm. Ở khía cạnh này, đánh

giá hỗ trợ cho giám sát.

Nếu chỉ có đánh giá mà không có giám sát thì sẽ không cập nhật được tình hình

thường xuyên, không thực hiện được công tác báo cáo, không có những cảnh báo sớm

kịp thời và do đó, trách nhiệm giải trình cũng không được thực hiện kịp thời.

Bảng 1. Sự khác nhau giữa giám sát và đánh giá

Giám sát

Đánh giá

Thực hiện liên tục hoặc định kỳ

Thực hiện theo giai đoạn hoặc đột xuất

Giám sát tình hình thực hiện các mục

tiêu đã đặt ra.

Đánh giá các mục tiêu trong mối quan hệ với các

mục đích ở cấp độ cao hơn hoặc với các vấn đề phát

sinh cần giải quyết.

So sánh với các chỉ số tiến độ đã xác

định trước.

Đặt câu hỏi về tính đúng đắn và hợp lý của các chỉ

số định trước.

Theo dõi tiến độ dựa vào một số ít

Giải quyết các vấn đề thuộc nhiều phạm vi khác

12

Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học

Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học

các chỉ số đã được xác định trước.

nhau.

Tập trung vào các kết quả dự kiến.

Xác định các kết quả dự kiến và ngoài dự kiến.

Chủ yếu sử dụng phương pháp định

lượng.

Sử dụng phương pháp định lượng và phương pháp

định tính.

Thu thập dữ liệu thường xuyên.

Thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau.

Thường là một chức năng của quản lý

nội bộ.

Thường do các chuyên gia đánh giá độc lập và các

cơ quan bên ngoài khởi xướng và thực hiện.

II. GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC

1.

Khái niệm

Giám sát trong giáo dục là hoạt động theo dõi quá trình thực hiện các hoạt động giáo

dục thông qua việc thường xuyên xem xét, rà soát sự tiến bộ, việc sử dụng các nguồn lực, so

sánh với các kết quả đầu ra, dựa trên các chỉ số hoạt động, và đưa ra các ý kiến phản hồi cho

các cấp quản lý và các bên liên quan. Giám sát cần thiết cho việc xác định hiệu quả thực hiện

các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu lâu dài. Giám sát hỗ trợ cho đánh giá.

Đánh giá trong giáo dục là việc xem xét, xác định chất lượng của đối tượng được đánh

giá (có thể là một cơ sở giáo dục hay cá nhân hoặc một chương trình, chính sách, dự án giáo

dục), trên cơ sở thu thập thông tin một cách hệ thống nhằm hỗ trợ việc ra quyết định và rút ra

bài học kinh nghiệm.

Cũng như các hệ thống khác, GS-ĐG trong giáo dục sử dụng bộ thước đo gồm các

tiêu chí/tiêu chuẩn/chỉ số để đo lường các lĩnh vực hoạt động giáo dục. Bộ công cụ này có thể

dùng để đánh giá, đo lường các điều kiện đảm bảo chất lượng, chất lượng giáo dục và hiệu

quả hoạt động giáo dục.

Việc GS-ĐG chất lượng giáo dục phục vụ các mục đích khác nhau như: xếp hạng,

khuyến khích tài chính và kiểm định công nhận.

2. Các chức năng của giám sát, đánh giá trong giáo dục

2.1. Kiểm định và cấp chứng chỉ

Chức năng này cho phép cơ quan, tổ chức đánh giá chứng nhận rằng cơ sở giáo dục

hoặc cá nhân (học sinh, sinh viên, giáo viên..) đã đạt được các chuẩn mực một cách chính

thức và hợp pháp (ví dụ: một trường đạt được chuẩn chất lượng ở mức nào đó hoặc học sinh

nhận được bằng tốt nghiệp/chứng chỉ chứng nhận đã hoàn thành khóa học).

2.2. Trách nhiệm giải trình

Chức năng này cho phép các cơ quan quản lý cấp trên thanh tra, kiểm tra chất lượng,

hiệu quả thực hiện các hoạt động của các cơ sở giáo dục hoặc các cơ quan quản lý cấp dưới

theo thẩm quyền, trách nhiệm được giao, kiểm tra việc tuân thủ các qui định về nghĩa vụ

quyền hạn và để nhận biết những phần hoạt động chưa hiệu quả. Chức năng này thường được

thực hiện bởi thanh tra các cấp.

2.3. Rút ra bài học kinh nghiệm để cải thiện tình hình

Trong chức năng này, GS-ĐG đóng vai trò đánh giá định hình (đánh giá tình hình

trước hoặc trong khi triển khai một chính sách/chương trình) vì nó cung cấp các thông tin

thực trạng phục vụ cho việc hoạch định một chính sách, thúc đẩy một hoạt động/chương trình

hay để sửa đổi/điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Ví dụ: kết quả các kỳ kiểm tra chất lượng

13

Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học

Tài liệu tăng cường năng lực quản lý trường học

đầu vào được dùng để tìm ra những điểm yếu của học sinh và tìm biện pháp hỗ trợ chứ không

phải là quyết định xem liệu học sinh học tập có đạt yêu cầu để cấp chứng chỉ không.

Đánh giá giáo dục được coi là hoạt động phân tích từ phương tiện đến mục đích. Phân

tích này cũng tương tự như phân tích nguyên nhân và kết quả, và vì thế đánh giá không chỉ

đơn thuần xem xét đã đạt được các thành tựu trong hoạt động hay chưa mà nó còn có mang

tính chất của việc phân tích nguyên nhân.

3. Mục đích của giám sát, đánh giá trong giáo dục

Giám sát, đánh giá có nhiều mục đích, có thể qui lại thành một số mục đích lớn dưới đây:

3.1. Điều chỉnh định mức chất lượng và chất lượng phục vụ

– Việc tổ chức các kỳ thi là để đánh giá học sinh. Kết quả các kì thi sẽ cho biết không chỉ kết

quả học tập của từng học sinh mà còn cho thấy chất lượng của cả hệ thống giáo dục hoặc ở

các phạm vi hẹp hơn như giáo dục của một tỉnh, một huyện hoặc một trường.

– Tỷ lệ học sinh thi đỗ (ví dụ đỗ vào đại học) có thể dùng để đánh giá chất lượng

chương trình học và chất lượng dạy và học tại các trường (cùng với một số chỉ số

bối cảnh khác).

– Các hệ thống kiểm soát chất lượng được áp dụng để kiểm tra các điều kiện đảm bảo chất

lượng thông qua quản lý giáo dục và các quy trình quản lý tại các cơ sở giáo dục.

3.2. Thực hiện trách nhiệm giải trình của hệ thống giáo dục

Các nhà trường phải thực hiện trách nhiệm giải trình trước các cơ quan quản lý cấp

trên và với cộng đồng, xã hội về trách nhiệm của nhà trường trong việc:

+ Đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực chi cho các hoạt động giáo dục.

+ Tổ chức thực hiện hiệu quả các hoạt động giáo dục và đảm bảo chất lượng các hoạt

động (hoặc vượt yêu cầu). Chất lượng các hoạt động có thể liên quan đến:

Việc lựa chọn đúng đắn các mục tiêu giáo dục,

Việc đạt được các mục tiêu giáo dục,

Việc phân bổ công bằng và đồng đều các nguồn lực giáo dục,

Việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực.

3.3. Là cơ chế kích thích nâng cao chất lượng giáo dục

Kết quả giám sát, đánh giá luôn là căn cứ quan trọng để thực hiện các hoạt động sửa

đổi tiếp theo hoặc cải thiện tình hình. Qui trình đánh giá – cho ý kiến phản hồi – hành động

chính là cơ chế của một quá trình ‘học tập mang tính tổ chức’ và cũng là cơ chế khuyến khích

quá trình tự học và nâng cao năng lực ở các cơ sở giáo dục.

Học tập những bài học kinh nghiệm từ đánh giá, đặc biệt từ các hoạt động không

thành công có một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hay thiết kế lại các chương

trình/hoạt động giáo dục.

4. Đối tượng, tiêu chí và các chuẩn mực đánh giá

4.1. Đối tượng đánh giá

Trong lĩnh vực giáo dục, các đối tượng đánh giá có thể gồm: hệ thống giáo dục quốc

gia hay một khu vực nhỏ trong hệ thống giáo dục, ví dụ giáo dục của một tỉnh, một trường,

một nhóm trường (ví dụ các trường chuyên), một chương trình cụ thể nào đó (ví dụ chương

trình đổi mới sách giáo khoa), hoặc cá nhân (ví dụ giáo viên và học sinh).

14

Quyển 3 – Giám sát, đánh giá trong trường học

Source: https://vh2.com.vn
Category : Nghe Nhìn