Simulacrum, từ simulacrum Latin, là một sự bắt chước, giả mạo hoặc hư cấu. Khái niệm này được liên kết với mô phỏng, đó là hành động mô phỏng .Một...
Công nghệ bao gồm yếu tố phần cứng và yếu tố phần mềm. Phần cứng của công nghệ – Tài liệu text
của công nghệ chính là dây chuyền trang thiết bị. Phần mềm của công nghệ
gồm thông tin, con người, và sự tổ chức sản xuất .
Con người ở đây là những người trực tiếp vận hành, sử dụng máy móc.
Thông tin ở đây là sự hiểu biết của người sử dụng các dây truyền máy
móc thiết bị về các thông số của máy móc, cách lắp ráp, điều khiển, bảo trì,
bảo dưỡng, đổi mới…
Công nghệ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, nó ảnh
hưởng đến lượng sản phẩm sản xuất ra, chất lượng sản phẩm, sự đổi mới
sản phẩm, sự tiêu giảm chi phí, sự thay đổi trong phương pháp sản xuất.
Quy trình công nghệ sẽ tạo ra được rào cản gia nhập ngành tốt hơn đối
với các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, tạo ra lợi thế về sự khác biệt hoá so với
đối thủ hiện tại. Sự thay đổi về mặt công nghệ là một sự đương nhiên
của quá trình sản xuất.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ở yếu tố quy trình,công nghệ
sản xuất được thể hiện qua:
+ Trang thiết bị máy móc hiện đại hơn so với đối thủ cạnh tranh.
+ Chi phí đầu tư mới trang thiết bị so với lợi nhuận hàng năm.
+ Quy trình sản xuất hợp lý.
Ở mỗi lĩnh vực sản xuất kinh doanh thì sự đóng góp của yếu tố công
nghệ là khác nhau. Do vậy mỗi một doanh nghiệp tuỳ vào lĩnh vực hoạt
động của mình, mà có chiến lược đầu tư vào công nghệ hợp lí nhằm đem lại
hiệu quả cao trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy rằng ảnh hưởng của yếu tố công nghệ ở từng doanh nghiệp là khác
nhau. Nhưng nhìn một cách tổng thể doanh nghiệp nào có sự đầu tư tốt cho
công nghệ, thì khả năng cạnh tranh trên thị trường được nâng cao so với các
đối thủ.
1.3.4. Các yếu tố marketing
1.3.4.1 Yếu tố sản phẩm
Khái niệm sản phẩm: Sản phẩm là mọi thứ có thể chào bán trên thị
trường để chú ý, mua, sử dụng, hay tiêu dùng, có thể thỏa mãn được một
mong muốn hay nhu cầu.
Khái niệm chất lượng sản phẩm: Là tổng thể những chỉ tiêu, những
thuộc tính sản phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn nhu cầu trong những điều
11
kiện tiêu dùng xác định phù hợp với công cụ của sản phẩm.
Đời sống ngày càng nâng cao, khách hàng chấp nhận giá cao hơn
cho sản phẩm tốt hơn. Đáp ứng nhu cầu đó, doanh nghiệp phải nỗ lực để tung
ra thị trường những sản phẩm có độ bền, kiểu dáng, mẫu mã đẹp, dễ sử
dụng. chất lượng sản phẩm trở thành cốt lõi đảm bảo cho doanh nghiệp tồn
tại và chiến thắng trong cạnh tranh. Nó là yêu cầu là động lực cho doanh
nghiệp mạnh dạn đầu tư vào khoa học công nghệ, trang bị máy móc thiết bị
hiện đại cũng như tuyển chọn đội ngũ lao động có kĩ năng chuyên môn điều
hành máy móc đó và có khả năng ứng biến linh hoạt trong quản lý.
Do vậy để cạnh tranh bằng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải xây dựng
thật tốt chiến lược bằng công nghệ và chiến lược nguồn nhân lực bên cạnh
việc kết hợp chiến lược thị trường, chiến lược kinh doanh.
Như vậy cạnh tranh bằng sản phẩm là một trong những công cụ cạnh
tranh cơ bản nhất mà doanh nghiệp thường áp dụng. Trong đó, cạnh tranh về
chất lượng sản phẩm, về chủng loại, kiểu dáng là những vấn đề trọng tâm,
chất lượng sản phẩm là nội dung quyết định hiệu quả của cạnh tranh.
Các doanh nghiệp phải thiết lập được chiến lược về sản phẩm hợp lý,
đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì phải xác định rõ các chỉ tiêu
chất lượng cho sản phẩm, tạo mối quan hệ mật thiết với nhà cung ứng để đảm
bảo chất lượng cũng như số lượng của nguồn hàng đầu vào bên cạnh đó đầu
tư vào nhà xưởng, kho bãi để đảm bảo hàng hóa không bị hư hỏng trong quá
trình lưu kho lưu bãi. Ngoài ra, ngoại hình, bao bì, đóng gói của sản phẩm
cũng là vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả. Chỉ có những sản phẩm có kiểu dáng
mới, ngoại hình đẹp thì mới có sức hấp dẫn mạnh. Nhất là trên thị trường
quốc tế, không có những sản phẩm mang phong cách độc đáo thì sẽ thiếu
năng lực cạnh tranh. Vì vậy cạnh tranh về sản phẩm luôn là vấn đề được
các doanh nghiệp quan tâm.
Chất lượng sản phẩm được coi là vấn đề sống còn đối với các doanh
nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi họ phải đương đầu
đối với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất
lượng hàng hóa dịch vụ không được đảm bảo thì có nghĩa doanh nghiệp sẽ
mất đi khách hàng và thị trường dẫn tới sự suy yếu trong hoạt động kinh
doanh. Mặt khác chất lượng thể hiện tính quyết định khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp ở chỗ nâng cao chất lượng sẽ làm tăng tố độ tiêu thụ sản
phẩm, tăng khối lượng hàng hóa dịch vụ bán ra, kéo dài chu kỳ sống của
12
sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng uy tín của doanh
nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp. Do vậy cạnh
tranh bằng chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng và cần thiết mà bất kỳ
doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều phải sử dụng nó.
1.3.4.2 Yếu tố giá
Giá cả được hiểu là số tiền mà người mua trả cho người bán về việc
cung cấp một số hàng hóa dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu hiện
bằng tiền của giá trị hao phí sức lao động sống và hao phí lao động vật hóa để
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu.
Giá cả là một trong những phương tiện chính để các doanh nghiệp cạnh
tranh. Cạnh tranh bằng giá là hình thức cạnh tranh theo đó các doanh nghiệp ưu
tiên mọi nỗ lực của mình hướng tới mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu giá thành.
Giá cả là tín hiệu phản ánh tình hình biến động của thị trường, là
thông số qua đó doanh nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng
của khách hàng cũng như khả năng cạnh tranh của daonh nghiệp trên thị
trường. Do vậy việc xác định giá bán trên thị trường là rất quan trọng,
song việc theo dõi biến động giá thông tin phản hồi từ khách hàng là tối cần
thiết. Đôi khi giá mà các doanh nghiệp xác định chỉ thu được lợi nhuận nhỏ
đối khi hòa vốn thậm chí thua lỗ tạm thời. Khi các doanh nghiệp thực sự
chiếm lĩnh thị trường đẩy đối thủ cạnh tranh ra khỏi vòng chiến hoặc làm
suy yếu tiềm lực của đối thủ cạnh tranh cũng là lúc doanh nghiệp lấy lại
những gì đã chi phí trong cạnh tranh.
Chính sách định giá: Việc xác định mức giá bán hợp lý là rất quan
trọng đối với doanh nghiệp bởi nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần có chính sách giá phù hợp sao
cho vừa đảm bảo lợi nhuận vừa đảm bảo tính cạnh tranh của doanh nghiệp.
*Cạnh tranh bằng việc hạ giá thành:
Khái niệm giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm hay loại sản phẩm nhất định. Việc hạ giá thành sản
phẩm sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giảm giá
bán để đẩy nhanh tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vốn nhanh.
Hạ giá thành trực tiếp làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp do giá cả
được hình thành do qua hệ cung cầu trên thị trường, nếu hạ giá thành so với
13
giá bán trên thị trường doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận trên một đơn vị
lợi nhuận càng cao. Nếu giá thành thấp, doanh nghiệp có lợi là có thể hạ
được giá bán để có thể tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hơn và sẽ thu
được lợi nhuận lớn hơn.
*Một số biện pháp để hạ giá thành sản phẩm:
Thường xuyên đổi mới kĩ thuật, công nghệ sản xuất trong doanh nghiệp,
ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kĩ thuật và sản xuất. Tuy
nhiên việc đầu tư, đổi mới kĩ thuật, công nghệ sản xuất thường đòi hỏi vốn
đầu tư lớn. Vì vậy doanh nghiệp phải có các biện pháp cụ thể, phù hợp để
huy động vốn, khai thác các nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp.
+ Không ngừng hoàn thiện và nâng cao trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức
lao động trong doanh nghiệp để nâng cao năng suất lao động, tiếp kiệm chi phí lao
động vật tư, chi phí quản lý, hạn chế tối đa các thiệt hại tổn thất trong quá trình
sản xuất. Từ đó tiếp kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
+ Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính với việc sử dụng chi phí.
1.3.4.3Yếu tố phân phối.
Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc
lực bới nó hạn chế được tình trạng ứ đọng hàng hóa hoặc thiếu hàng. Các
chính sách phân phối sản phẩm phải hợp lý, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Chính sách phân phối sản phẩm hợp lý sẽ tăng nhanh vòng
quay của vốn, thúc đẩy tiêu thụ, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Kênh phân phối là tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân, độc lập hoặc
phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình đưa hàng hóa từ người sản xuất
tới người tiêu dùng. Để hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp được diễn ra
thông suốt, thường xuyên và đầy đủ doanh nghiệp cần phải lựa chọn kênh
phân phối phù hợp với các đặc trưng của thị trường, của khách hàng.
Thông thường kênh phân phối của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:
– Kênh cực ngắn: Người sản xuất, người tiêu dùng.
– Kênh ngắn : Người sản xuất, người bán lẻ, người tiêu dùng.
– Kênh dài: Người sản xuất, người bán buôn, người bán lẻ, người
tiêu dùng.
– Kênh cực dài: Người sản xuất, đại lý, người bán buôn, người bán lẻ
người tiêu dùng.
14
– Kênh rút gọn: Người sản xuất đại lý, người bán lẻ, người tiêu dùng.
Doanh nghiệp muốn sử dụng vũ khí cạnh tranh bằng hệ thống kênh phân
phối đòi hỏi doanh nghiệp phải thiết lập được mạng lưới phân phối rộng
khắp và vững chắc, càng có nhiều hình thức phân phối càng tận dụng được tối
đa cơ hội bán hàng. Nhiều sản phẩm trong nước mặc dù có thương hiệu, uy
tín lâu năm với khách hàng nhưng lại khó đến tay người tiêu dùng trong
nước chỉ vì hệ thống phân phối chưa phủ rộng, phủ mạnh thị trường. Đây
chính là một trong những điểm yếu của doanh nghiệp trong việc chiếm lĩnh
thị trường nội địa. Các doanh nghiệp cần chú ý tới xu hướng thay đổi của hệ
thống phân phối để kịp thời điểu chỉnh cho phù hợp. Căn cứ vào mặt hàng,
ngành hàng kinh doanh, doanh nghiệp cần lựa chọn hệ thống thương mại nào
phù hợp để xây dựng và phát triển hệ thống phân phối.
Thông qua phân phối doanh nghiệp có thể thiết lập được các lợi thế
cạnh tranh nếu doanh nghiệp tổ chức tốt khâu phân phối trên nền tảng thế
mạnh và các nhân tố thành công của doanh nghiệp cũng như của ngành
hàng. Doanh nghiệp có tổ chức tốt khâu phân phối thông qua các cơ chế
khuyến khích, giải quyết thỏa đáng các xung đột giữa các kênh phân phối
cũng như nội bộ của từng kênh thì doanh nghiệp mới có thể thiết lập được
mối quan hệ bền vững giữa doanh nghiệp và hệ thống phân phối trong việc
hướng tới thỏa mãn tối đa khách hàng.
Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối là xu thế của kinh tế thị trường.
Nghiên cứu, phát triển hệ thống phân phối rộng khắp và tiếp cận được thị
trường mục tiêu không những tạo được lợi thế cạnh tranh lớn trên thương
trường mà con đạt được lợi thế dài hạn trong cạnh tranh.
1.3.4.4Yếu tố xúc tiến hỗn hợp.
Ngày nay nhiều doanh nghiệp lựa chọn vũ khí cạnh tranh chính là hoạt
động xúc tiến hỗn hợp. Tuy nhiên, hoạt động xúc tiến hỗn hợp của các
doanh nghiệp Việt nam còn ở trình độ thấp, giản đơn và không mang lại
trình độ thiết thực. Trong khi xúc tiến hỗn hợp lại là một công cụ rất quan
trọng trong cạnh tranh nó giúp đưa tin tức về sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp tới người tiêu dùng để thuyết phục họ mua hàng.
Và dưới đây là một số các công cụ của hoạt động xúc tiến hốn hợp
cũng như tác dụng của các công cụ đối với việc nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp:
*Quảng cáo: Là mọi hình thức giới thiệu gián tiếp và đề cao về hàng
15
hóa hay ý tưởng theo yêu cầu của chủ thể quảng cáo và phải thanh toán các
chi phí. Quảng cáo có tính biểu cảm, cho phép công ty kịch hóa sẩn phẩm của
mình với những lỗi sử dụng in ấn, âm thanh, màu sắc đầy tính nghệ thuật.
Ngoài ra quảng cáo còn cho phép người bán lặp lại một thông điệp nhiều lần,
và cho phép người mua tiếp nhận, so sánh các thông điệp của công ty với
nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau. Quảng cáo trên phạm vi rộng từ phía
người bán nói lên một số mặt tích cực như tính phổ biến, tầm cỡ và mức độ
thành công của người bán.
Tuy nhiên quảng cáo cũng có một số khiếm khuyết. Mặc dù quảng cáo
nhanh chóng giới thiệu sản phẩm đến được với nhiều người nhưng quảng
cáo mang tính gián tiếp và không có khả năng thuyết phục như một nhân
viên bán hàng. Quảng cáo chỉ có thể giao tiếp một chiều với khách hàng, và
khách hàng cảm thấy không nhất thiết phải phản hồi hay để ý.
*Khuyến mại: Là mọi biện pháp tức thời ngắn hạn để thúc đẩy việc
mua hàng.
Khuyến mại là một trong những công cụ khá quan trọng của xúc tiến
thương mại, được coi là hình thức xúc tiến bổ sung cho quảng cáo. Phần
lớn các doanh nghiệp sử dụng khuyến mại nhằm kích thích khách hang
đến hành vi mua sắm. Hoạt động này áp dụng cho cả khách hàng là người
tiêu dùng cuối cùng hay các trung gian, các khách hàng công nghiệp. Biện
pháp này được áp dụng cho các hàng hóa mới tung ra thị trường, áp lực cạnh
tranh cao hay những sản phẩm ở cuối chu kì sống của nó. Thông qua đó,
doanh nghiệp thu hút thêm khách hàng mới, kích thích khách hàng truyền
thống, trên cơ sở đó giữ vững cũng như bảo vệ hay phát triển thị trường tiêu
thụ sản phẩm nhanh chóng trong thời gian ngắn. Các hình thức khuyến mại
chủ yếu thườn được các doanh nghiệp thương mại sử dụng như: Giảm giá,
phiếu mua hàng, trả lại một phần tiền, trò chơi miễn phí…
*Xúc tiến bán: Là những biện pháp tác động tức thời, ngắn hạn để khuyến
khích việc dùng thử sản phẩm hay kích thích việc mua nhiều sản phẩm. Nói cách
khác xúc tiến bán hàng được hiểu là tất cả các hoạt động Marketing của doanh
nghiệp nhằm tác động vào tâm lý khách hàng, tiếp cận họ để nắm bắt nhu cầu
của họ từ đó đưa ra các biện pháp kích thích họ mua hàng.
Hoạt động xúc tiến bán giúp cho các doanh nghiệp thương mại có cơ hội
phát triển các mối quan hệ với bạn hàng đồng thời giúp doanh nghiệp thông
tin về thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển kinh doanh, giúp
16
doanh nghiệp đầu tư phù hợp. Mặt khác, xúc tiến bán cũng là công cụ hữu
hiệu để chiếm lĩnh thị trường, tăng tính cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên
thị trường, chính vì thế xúc tiến tạo điều kiện làm cho bán hàng được thêm
thuận lợi, kênh phân phối được trí hợp, tăng hiệu quả, hơn nữa xúc tiến bán
là công cụ đặc biệt kích thích người tiêu dùng tìm hiểu, mua và sử dụng sản
phẩm cảu doanh nghiệp…
*Tuyên truyền: Là việc kích thích một cách gián tiếp nhằm tăng nhu
cầu về hàng hóa dịch vụ hay uy tín của doanh nghiệp bằng cách đưa ra
những tin tức có ý nghĩa thương mại trên các ấn phẩm, các phương tiện
thông tin đại chúng một cách thuận lợi và miễn phí.
Tuyên truyền là một phần của khái niệm lớn hơn là quan hệ công
chúng. Công chúng có thể tạo thuận lợi và gây trở ngại cho khả năng đạt
được các mục tiêu của doanh nghiệp. Người quyết định cho sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp không chỉ là khách hàng mà còn là người cung
ứng và các công chúng quan tâm. Doanh nghiệp có thể xây dựng mối quan
hệ với công chúng thông qua các phương tiện báo chí, tham gia hội chợ,
triển lãm, tổ chức hội nghị, hội thảo nhằm qua đó giới thiệu hình ảnh của
doanh nghiệp, tạo sự quan tâm chú ý đến sản phẩm của doanh nghiệp, gây uy
tín, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động.
1.3.5. Hoạt động nghiên cứu và phát triển
Hoạt động nghiên cứu và phát triển là một trong những hoạt động của
công ty. Nó giúp cho công ty không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm,
cũng như mẫu mã của sản phẩm. Giúp cho sản phẩm của công ty có sự khác
biệt so với sản phẩm của các doanh nghiệp khác, tạo ra năng lực cạnh
tranh.Việc nâng cao yếu tố khoa học kỹ thuật trong doanh nghiệp chính là
khả năng hoạt động nghiên cứu ứng dụng và khai thác khoa học kỹ thuật, để
nâng cao trình độ hiện đại của các yếu tố khoa học kỹ thuật trong mọi hoạt
động của doanh nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong doanh nghiệp, nâng cao trình độ hiện đại các yếu tố vật chất kỹ thuật
sản xuất các yếu tố đó chính là công cụ lao động, năng lượng, nguyên liệu
và phương pháp công nghệ. Tuy nhiên cần phải tốn nhiều chi phí tài chính.
1.3.6 Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Để đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ta phải
đánh giá tổng thể tất cả các mặt sau:
1.3.6.1. Nguồn lực của doanh nghiệp
17
Các nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm vốn, nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật.
Nguồn vốn và tiềm lực tài chính
Vốn là nguồn lực mà doanh nghiệp cần có trước tiên vì không có vốn
không thể thành lập được doanh nghiệp và không thể tiến hành hoạt động
được. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp có nguồn
vốn dồi dào luôn đảm bảo huy động được vốn trong những trường hợp cần
thiết; doanh nghiệp đó phải sử dụng đồng vốn có hiệu quả và hạch toán chi
phí một cách rõ ràng. Như vậy doanh nghiệp cần đa dạng nguồn cung vốn bởi
nếu thiếu vốn thì hạn chế rất lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp như
đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại, hạn chế đào tạo nâng cao trình độ cán bộ,
công nhân, nghiên cứu thị trường…
Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của
doanh nghiệp mạnh, yếu như thế nào. Trong tiêu chí này có các nhóm chỉ tiêu
chủ yếu:
1. Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nguồn vốn.
Tỷ lệ nợ = Tổng nợ phải trả/ Tổng vốn(%)
Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp càng ít phụ thuộc vào nguồn
vay từ bên ngoài. Tỷ lệ này cần duy trì ở mức trung bình của ngành là hợp lý.
2. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán.
– Khả năng thanh toán nhanh = (Tổng tài sản lưu động- Hàng tồn kho)/
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu
tiền hiện có. Hệ số này càng cao càng tốt, tuy nhiên còn phải xem xét kỹ các
khoản phải thu ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp hoạt động bình thường thì hệ số này thường bằng 1.
– Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn = Tổng tài sản lưu động/ Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết một đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng bao nhiêu
tài sản lưu động. Nếu hệ số này quá nhỏ doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng
mất khả năng thanh toán. Hệ số này quá cao tức doanh nghiệp đã đầu tư vào
tài sản lưu động quá nhiều không mang lại hiệu quả lâu dài. Mức hợp lý là
bằng 2.
3. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả.
18
– Tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu = Lợi nhuận/ Doanh thu(%)
Chỉ số này cho biết trong một đồng hay 100 đồng doanh thu thì có bao
nhiêu đồng lợi nhuận thu được. Chỉ số này càng cao càng tốt.
– Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có = Lợi nhuận/ Tổng vốn chủ sở hữu(%)
Các tiêu chí trên tốt sẽ giúp doanh nghiệp có được năng lực cạnh tranh
so với các đối thủ của mình.
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp có nguồn nhân lực có chất lượng cao, doanh nghiệp sẽ
có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đội ngũ công nhân lành nghề, có tay
nghề cao, trách nhiệm với công việc sẽ tạo ra được sản phẩm có chất lượng
cao, tăng năng suất lao động. Đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, đạo đức
kinh doanh, đưa ra các quyết định đúng đắn và đúng thời điểm có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nếu đội ngũ
cán bộ quản lý yếu kém thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó
khăn trong tổ chức quản lý, bỏ lỡ nhiều cơ hội trong kinh doanh; nhân công
trình độ tay nghề thấp sẽ sản xuất ra sản phẩm có chất lượng thấp, năng suất
lao động thấp gây lãng phí thời gian cũng như tiền bạc.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, sự khác biệt hoá về nguồn
nhân lực là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu nhất cho các doanh nghiệp. Hoàn thiện
kỹ năng, trình độ chuyên môn của người lao động và đảm bảo duy trì mối
quan hệ tốt giữa những người lao động với nhau và với bộ phận quản lý là
điều kiện sống còn trong việc tạo ra giá trị, tăng năng suất và giảm chi phí.
Trình độ Công nghệ sản xuất
Công nghệ là phương pháp, là bí mật, là công thức tạo sản phẩm. Để sử
dụng công nghệ có hiệu quả doanh nghiệp cần lựa chọn công nghệ thích hợp
để tạo ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường; phải đào tạo công
nhân có đủ trình độ để điều khiển và kiểm soát công nghệ, nếu không công
nghệ hiện đại mà sử dụng không hiệu quả.
Để đánh giá về công nghệ của doanh nghiệp ta cần đánh giá nội dung sau:
Thứ nhất: Chi phí cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ mới.
Sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng
hoá của họ thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi
các doanh nghiệp phải tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng
19
cao chất lượng hàng hoá. Muốn vậy các doanh nghiệp phải thường xuyên cải
tiến công nghệ. Thực tế đã chứng minh các doanh nghiệp muốn tồn tại và
cạnh tranh được trên thị trường cần có dây chuyền công nghệ mới. Do đó
doanh nghiệp càng quan tâm, đầu tư nhiều cho nghiên cứu ứng dụng công
nghệ mới vào sản xuất thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng tăng.
Thứ hai: Mức độ hiện đại của công nghệ.
Để có năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải trang bị những công nghệ
hiện đại đó là những công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian tạo ra sản phẩm
ngắn, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu thấp, năng suất cao, tính linh hoạt cao,
chất lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường. Công nghệ của công
ty càng hiện đại sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá
thành, chất lượng sản phẩm tốt do đó làm cho năng lực cạnh tranh của sản
phẩm tăng và qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.3.6.2. Tổ chức quản lý điều hành sản xuất của doanh nghiệp
Tổ chức quản lý điều hành sản xuất là nhân tố quan trọng trong quá trình
sản xuất của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý sản xuất tốt trước hết phải áp
dụng các phương pháp quản lý hiện đại được nhiều doanh nghiệp áp dụng,
quản lý chất lượng như áp dụng ISO 9001- 2000, ISO 9000, SA 8000… Tổ
chức quản lý sản xuất tốt cũng có nghĩa phải phối hợp linh hoạt giữa các bộ
phận phòng ban trong hoạt động sản xuất, bố trí nhân viên phù hợp với yêu
cầu công việc để tăng năng suất lao động, chuẩn bị tốt máy móc trang thiết bị,
thực hiện hoạt động kiểm tra một cách thường xuyên để đảm bảo sản phẩm
sản xuất ra đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu. Ngược lại
tổ chức quản lý sản xuất không tốt, không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ
phận thì doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực,
giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.6.3. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
Chất lượng sản phẩm là mức độ tập hợp các đặc tính của sản phẩm làm
thoả mãn những nhu cầu của xã hội và của cá nhân, trong những điều kiện xác
định về sản xuất và tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm được thể hiện thông qua
các chỉ tiêu chất lượng đặc trưng cho tính chất của sản phẩm như độ tin cậy,
tính công nghệ, tính dễ vận hành, vận chuyển, tính an toàn đối với con người
và môi trường, độ bền, độ chính xác, tính thẩm mĩ… Chất lượng sản phẩm
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: khâu nghiên cứu thiết kế, khâu tạo sản phẩm
và phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực con người cũng như công nghệ sản
20
xuất. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu
hàng hoá thì chất lượng sản phẩm là yếu tố đặc biệt quan trọng bởi mức sống
của người tiêu dùng ngày một tăng, các doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh
bằng giá cả mà phải cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi kèm…
Cung cấp hàng hoá có chất lượng cao sẽ giúp doanh nghiệp định giá sản phẩm
cao hơn, bán được nhiều hàng hơn đối thủ cạnh tranh qua đó tăng doanh thu.
Mặt khác sản xuất được sản phẩm có chất lượng cao đồng nghĩa với doanh
nghiệp đó có được đội ngũ cán bộ công nhân viên sáng tạo, lành nghề, áp
dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất. Chất lượng sản phẩm là một tiêu chuẩn
kinh tế – kĩ thuật rất quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất và có ý nghĩa
kinh tế to lớn (mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ, nhất là
thị trường quốc tế). Tất cả những yếu tố đó đều làm tăng năng lực cạnh tranh
cho doanh nghiệp.
1.3.6.4. Năng suất lao động của doanh nghiệp
Năng suât lao động là chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện tính chất và trình
độ tiến bộ của một tổ chức, một đơn vị sản xuất. Năng suất lao động là một
chỉ tiêu tổng hợp của mọi yếu tố: Con người, công nghệ – cơ sở vật chất kỹ
thuật, tổ chức phối hợp… Có năng suất cao là nhờ tổ chức sản xuất kinh
doanh tốt, sử dụng tối ưu các nguồn lực, giảm tối đa các chi phí. Vì thế năng
suất lao động là tiêu chí rất quan trọng để xem xét đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp..Năng suất lao động là năng lực tạo ra của cải, hay
hiệu suất của lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, được đo bằng lượng
sản phẩm đảm bảo chất lượng trên một đơn vị lao động
Công thức: NS= R/ L
Trong đó:
NS: Năng suất lao động( đơn vị là số lượng sản phẩm đảm bảo chất
lượng/ lao động hoặc đồng/ lao động).
R: Đầu ra tính theo giờ, ca, ngày…, đơn vị đo là lượng sản phẩm đảm
bảo chất lượng hoặc bằng tiền.
L: Số lượng lao động làm ra đầu ra đó.
Năng suất lao động của doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp càng cao bấy nhiêu( về tiêu chí đó) so với các
doanh nghiệp cùng ngành.
1.3.6.5 Hoạt động nghiên cứu thị trường và Marketing
21
Source: https://vh2.com.vn
Category : Tin Học