Networks Business Online Việt Nam & International VH2

THƯƠNG VỢ

Đăng ngày 05 June, 2023 bởi admin
( TRẦN TẾ XƯƠNG )
Thơ văn Nước Ta lâu nay có những bài thơ thương vợ, khóc vợ rất cảm động. Người ta còn truyền tụng một bài thơ của Tự Đức khóc một bà phi có câu :
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng ,

Xếp tàn y lại để dành hơi.

Bạn đang đọc: THƯƠNG VỢ

Nỗi nhớ nhung thật là đau đớn, kinh hoàng. Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thượng Hiền cũng có bài văn tế, câu đối khóc vợ rất tha thiết. Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng có câu đối khóc vợ thật cảm động :
“ Nhà chỉn cũng nghèo thay ! Nhờ được bà hay lam hay làm thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc ;
Bà đi đâu vội mấy ! Để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm ” .
Chỉ một câu đối mà nhà thơ đã khắc họa một hình ảnh khó quên của người vợ tảo tần, đỡ đần cho chồng trong mọi việc. Nói là khóc, thực ra là biết ơn, tri ơn người vợ của mình .
Nhà thơ Tú Xương cũng là một người rất thương vợ, kính vợ. Ông có bài Văn tế sống vợ vừa rất cảm động, lại vừa tinh nghịch, đúng với tính cách của ông .
Theo nhà thơ Xuân Diệu cho biết : “ Bà Tú Xương tên là Phạm Thị Mẫn, dòng dõi họ Phạm ở làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Thành Phố Hải Dương, nhưng sinh ở Tỉnh Nam Định, hơn chồng một tuổi. Khi ông Tú Xương mất, bà mới có 38 tuổi, ở góa nuôi con, đến năm 1931 thì mất, thọ 63 tuổi. Trong bài Văn tế sống vợ vừa nêu, ông Tú tả vợ như sau :
“ Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng gầy ;
Người thư thả, tính hạnh khoan hòa, chỉ một bệnh hay gàn hay dở ” .
Qua câu văn, ta thấy bà Tú là người có bản lĩnh, tính tình khoan hòa nhưng thẳng thắn, nói thật bụng ( người đời bảo là gàn dở ! ) .
Theo kể lại, có bà án, bà phủ, bà huyện nào về thăm họ, đội nón quai thao, đi dép cong, vận áo xuyến, nhưng bà Tú Xương thì vẫn áo nâu chùng tứ thân, không gài cúc, dép quai ngang ( người hàng xáo dùng dép quai ngang cho dễ đi chợ, đi xa được ). Bà Tú hiếu khách, nhưng không có ý lấy lòng ai cả. Bà Tú buôn gạo hàng đội, hàng thúng, chứ không có vốn buôn hàng thuyền. Ông Tú thích đánh kiệu có ăn tiền, nhưng không sát phạt. Mỗi khi sắp đi chợ, bà Tú giắt lên mái nhà cho ông mười đồng kẽm. Bà đi từ canh năm, ông dậy muộn, ăn sáng xong đã có tiền đi chơi. Hiểu thế để thấy tấm lòng bà Tú rất mực yêu chồng, chiều chồng ; và cái sự “ nuôi chồng ” của bà khá chu đáo .
Thương vợ là một bài thơ vừa cảm động, vừa dí dỏm của Tú Xương. Chỉ hai câu đầu của bài thơ đã nêu bật được vai trò trụ cột mái ấm gia đình của bà :
Quanh năm kinh doanh ở mom sông ,
Nuôi đủ năm con với một chồng .
Bà Tú làm nghề kinh doanh quanh năm ở “ mom sông ”. “ Mom sông ” là chỗ đất nhô ra ở bờ sông Vị Hoàng chảy qua thành phố Tỉnh Nam Định. Ở đó, có chợ buôn gạo. Trong bài Văn tế sống vợ, có câu : “ Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười ”. Ta hoàn toàn có thể hiểu “ mom sông ” là chốn “ đầu sông bãi bến ”, là nơi cheo leo, eo hẹp .
Câu thơ “ Nuôi đủ năm con với một chồng ” đã nâng cao bà Tú lên hàng trụ cột mái ấm gia đình, và hạ ông chồng xuống hàng phải nuôi “ báo cô ”, tức là hạng ăn bám vào vợ mà không giúp được gì cho vợ. Trong câu thơ đã hàm ý biết ơn vợ và tự trào, mỉa mai mình một cách thâm trầm. Tình thương vợ được bộc lộ toàn vẹn trong hai câu 3, 4 :
Lặn lội thân cò khi quãng vắng ,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông .

Nói “lặn lội thân cò” buộc người ta liên tưởng tới câu ca dao : “Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỷ non”. Con cò gánh gạo, con cò thương chồng, vì thương chồng mà lặn lội. Đó là hình ảnh của kẻ thương chồng. Một hình ảnh thật đắt, vì bà Tú cũng làm nghề bán gạo. Thật khó có một hình ảnh nào hay hơn. “Khi quãng vắng” là hình ảnh về sự cô đơn, thiếu người đỡ đần. Ông Tú như thấy vắng mình ở nơi quãng vắng ấy, nên càng thương bà Tú hơn. “Buổi đò đông” cũng là buổi chợ đông và eo sèo, đôi co, chen chúc, là cảnh thường xuyên bà Tú phải chịu đựng. Cả hai câu đều tả sự khó nhọc thường xuyên mà bà Tú phải chịu để đổi lại sự thong dong trong sinh hoạt của ông chồng. Ông chồng tỏ ra thấu hiểu hết :

Một duyên, hai nợ âu đành phận ,
Năm nắng, mười mưa dám quản công .
Câu thơ như nói lên ý nghĩ của bà Tú. Cuộc đời như thế là duyên, mà cũng là nợ, duyên một thì nợ hai, thôi đành chịu theo số phận, không dám nề hà, kể công gì nữa. Nhưng câu thơ còn làm nhớ câu ca dao : “ Một duyên hai nợ, ba tình, Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh ”. Ở đây còn có mối tình, cái tình của bà Tú so với ông Tú. Thành ra nói là “ nợ ” nhưng thực ra là nói “ tình ”, mà đã là tình thì ai lại kể công, câu thơ có một nghĩa ngầm mê hoặc .
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc ,
Có chồng hờ hững cũng như không .
Bài thơ kết bằng một câu chửi, một câu chửi yêu. Hiển nhiên là bà Tú không chửi. Bà đã thương chồng đành phận, không dám quản công thì còn đâu nỡ chửi. Nhưng ông Tú thì không hề tha thứ cho mình. Ông đã chửi bao nhiêu hiện tượng kỳ lạ nhố nhăng, thì làm thế nào ông tha cho cái “ vô tích sự ” của mình được ! Đấng mày râu để vợ nuôi báo cô với một lũ con thì thật đáng chửi. Người có tư cách chửi nhất là bà vợ. Giá bà chửi cho một câu thì ông cũng hả, vì bà đã coi mình khác lũ con. Nhà thơ đành mượn lời bà Tú để tự mắng mình. Câu chửi tưởng tượng ấy đã nâng cao nhân cách nhà thơ. Ông “ ăn ở bạc ” nhưng lòng không bạc, không “ hờ hững ” chút nào .
Nhà thơ Xuân Diệu đã rất phục bài thơ này. Ông nói : “ Thơ hay, hay ở ý tình ; hay ở chữ, tiếng, hay ở vấn đề ; hay ở nhạc điệu ; lặn lội, eo sèo, thân cò, mặt nước, quãng vắng, đò đông, mỗi chữ đều tình cảm. Ở mom sông là cheo veo, chênh vênh chứ không phải ở một cái bến ngang sông sinh động thông thường. Nuôi đủ năm con với một chồng. Thì ra chồng cũng là một thứ … phải nuôi. Đếm con, năm con, chứ ai lại đếm chồng, một chồng … Càng đọc câu thơ càng nhiều ý vị ” .
Đọc bài thơ này ta thấy có hai giọng. Đây là chỗ khác với bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương. Bài thơ của Hồ Xuân Hương có giọng giãi bày, tự trào, cam chịu, pha chút thương mình. Bài này bà Tú cũng có giọng đành phận, cam chịu, nhưng ông Tú thì đã thấy ra sự bất công. Câu 5, 6 lời của ông Tú, mà ý là của bà Tú, còn câu 7, 8 thì lời là của bà Tú, mà ý là của ông Tú. Ông bà rất hiểu nhau và thương nhau .
Bài thơ nhan đề là Thương vợ, nhưng sáu câu đầu là cực tả cái sự thương chồng của bà Tú. Có việc gì mà bà không làm vì chồng ? Nhưng khi hiểu được sự thương chồng ấy chính là lúc ông Tú rất thương vợ. Câu chửi cuối bài hẳn khiến cho bà Tú càng yêu ông Tú hơn. Bài thơ khéo ở chỗ đó .
Advertisement

Cài đặt chính sách riêng tư

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải …

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá