Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Bình luận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.>

Đăng ngày 05 June, 2023 bởi admin

Bài mẫu

Nhà thơ xưng con – một lời nói nghẹn ngào được nén chặt suốt hai mươi năm lăm xa cách. Một tiếng con giản dị và đơn giản nhưng lại như tiếng nấc xót đau. Tiếng con vừa thân thương mà lại vừa thân mật. Người con ấy từ miền Nam, đang thực thi ước nguyện được gặp Người .. Khi sinh thời, Người vẫn nói miền Nam trong trái tim tôi và ước nguyện lớn lao của Người đó là Tổ quốc thống nhất, Bắc Nam sum vầy. Bác dành cho miền Nam một tình cảm đặc biệt quan trọng :Viết về lần thăm viếng một con người vĩ đại, dòng xúc cảm của bài thơ đi theo trình tự thời hạn nhưng hầu hết xúc cảm được gửi vào những khoảng trống bên lăng. Bao trùm cả bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, tôn kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của nhà thơ .

Hoà cùng dòng cảm hứng viết về sự ra đi của Người trong những ngày tháng chín năm 1969, qua bài thơ Viếng lăng Bác, nhà thơ Viễn Phương đã nói lên tấm lòng của đồng bào miền Nam cũng như muốn nói Bác bất tử trong niềm thương kính của nhân dân.

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
( Tố Hữu )
Giờ đây, khi quốc gia đã sạch bóng quân địch, con từ miền Nam về đây gặp Người thì Người đã đi xa. Câu thơ chỉ là lời ra mắt đơn giản và giản dị, nhưng lại tiềm ẩn bao tiếc đau và nước mắt. Trong phút bên lăng ấy, nhà thơ phát hiện những hàng tre :
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Hàng tre có thực bên lăng nhờ từ bát ngát đã trở thành hàng tre quốc gia, hàng tre hình tượng cho sức sống bền chắc, sự kiên cường quật cường, dáng đứng hiên ngang của dân tộc bản địa Nước Ta. Qua bão táp mưa Sa hàng tre vẫn đứng thẳng, vẫn kiên cường như những người dân Việt :
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng .
Cảm xúc dồn nén giờ bật lên thành lời :
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Nước Ta
Hàng tre kia đã được gắn với tên Tổ quốc, hai tiếng Nước Ta đầy thân thương. Nơi lăng Bác, ý nguyện của Người về quốc gia độc lập, tự do vẫn vẹn nguyên, tươi xanh trong hình ảnh hàng tre. Nếu như dòng thơ đầu là nỗi tiếc đau của tác giả thì ba dòng thơ còn lại Viễn Phương nói về tre, nghĩ về tre và cũng là nói về Bác. Bên lăng, trong cảm hứng xúc động của nhà thơ, hình ảnh Bác gắn liền với hình ảnh quốc gia kiên cường .
Bác đã đi xa mãi mãi nhưng với Viễn Phương, hình ảnh Bác bất tử trong mối liên tưởng với mặt trời và tràng hoa – dòng người viếng Bác :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ .
Thời gian là bất tận. Vòng tuần hoàn thời hạn vẫn cứ trôi lặng lẽ. Như vầng dương chói sáng đem lại ánh sáng cho vạn vật thiên nhiên, Bác là nguồn sáng của dân tộc bản địa Nước Ta. Bác là người đã rọi sáng con đường tự do dẫn cả dân tộc bản địa bước tới. Chính Bác đã mang đến sự sống cho cả một dân tộc bản địa. Phải có lòng kính yêu, chân thành, thiết tha mới có cảm hứng liên tưởng Bác với mặt trời như vậy. Ví Bác với mặt trời vừa nói lên sự vĩ đại của Bác vừa nói lên sự trân trọng, tấm lòng tôn kính của Bác và cũng qua hình ảnh ẩn dụ ấy còn là sự bất tử bởi Người đã hóa thân vào những gì vĩnh cửu của vạn vật thiên nhiên, thiên hà. Không chỉ so sánh bằng hình ảnh tĩnh mặt trời mà mặt trời Bác còn là một vầng dương rất đỏ. Vầng dương rực đỏ như bầu nhiệt huyết của một vị lãnh tụ suốt đời hi sinh cho Tổ quốc. Bầu nhiệt huyết ấy như vẫn chói sáng, vẫn căng tràn mặc dầu con người ấy không còn. Đặt Bác trong mối liên tưởng với mặt trời dù đã là sự suy tôn cao nhất nhưng tác giả vẫn gắn thêm định ngữ rất đỏ như muốn khẳng định chắc chắn : Bác vẫn sống sót, tỏa thắm như vầng mặt trời tỏa sáng .
Với Viễn Phương, hình ảnh không chỉ bất tử khi được ví như mặt trời mà người còn mãi trong những dòng thương nhớ :
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

 Trong con mắt tác giả, cảm xúc đã khiến không gian lặng không còn là không gian tự nhiên mà là không gian của lòng người, không gian thương nhớ. Một năm sau ngày đất nước thống nhất, lòng thương kính vẫn vẹn nguyên khi nhà thơ hoà cùng dòng người viếng Bác. Sự ra đi của Người như mới chỉ là ngày hôm qua. Tất cả vẫn như còn lại đó, không đổi thay, xoay chuyển, vẫn luôn là dòng người với nỗi đau, cảm giác mất mát, thiếu vắng. Từ hình ảnh thực ấy, tác giả liên tưởng dòng người như kết thành tràng hoa. Tuy không còn nữa nhưng sự ra đi của Người lại gắn kết những người còn sống theo đúng ước nguyện của Người:

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân …
Dòng người không chỉ đến viếng một Người đã khuất mà viếng một cuộc sống bảy mươi chín mùa xuân. Nhà thơ không gọi bằng tuổi mà nói bằng mùa xuân là để hóa xuân, vĩnh cửu hóa cuộc sống Người. Bởi cuộc sống ấy đẹp như mùa xuân và mùa xuân ấy đã mang lại sức xuân cho cả một dân tộc bản địa. Cuộc đời Bác là một mùa xuân đẹp nhất trong hàng ngàn mùa xuân nhỏ của dân tộc bản địa anh hùng. Khổ thơ có sự tái diễn cấu trúc :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng …
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Mặt trời lặn mọc mỗi ngày trên lăng cũng như dòng người vào lăng viếng Bác vẫn còn mãi như niềm yêu kính của nhân dân và cũng thế cho nên mà Bác Hồ là bất tử .
Theo bước chân của dòng người, nhà thơ được tiếp cận di hài Bác và cảm thấy một niềm tiếc thương vô hạn, niềm đau xót khôn nguôi :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Khung cảnh và khoảng trống thanh tĩnh trong lăng như ngưng kết cả thời hạn và khoảng trống. Cả cuộc sống Bác là những chuỗi ngày dài không ngủ. Chỉ giờ đây Người mới có giấc ngủ ngàn thu yên bình. Trong khoảng trống lăng yên bình, trang nghiêm như vậy, trong dòng xúc cảm trào dâng những ý thơ, trăng vốn gắn bó với người lúc sinh thời như hiện về trong tâm tưởng :
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Nếu hai dòng thơ đầu là cảm hứng của nhà thơ trong phút đầu gặp Người thì hai dòng thơ sau là một nỗi xót đau :
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim !
Câu thơ như một lời tự hỏi, một câu phân vân giữa ý chí và tình cảm. Tiếng nói của ý chí vẫn biết trời xanh là mãi mãi – Người vẫn còn như trời xanh còn mãi nhưng điều đó chẳng thể ngăn được tình cảm nhói đau chợt đến Mà sao nghe nhói ở trong tim. Cặp quan hệ từ vẫn biết – mà sao diễn đạt cái diễn biến không lường được, không trấn áp nổi cảm hứng của tác giả, của người về muộn bên di hài Người cha tôn kính .
Những xót đau, thương tiếc đã trở thành ước nguyện hóa thân làm đẹp nơi yên nghỉ của Người, làm người con trung hiếu của Bác trong bài thơ :
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Thời gian phải rời xa còn rất ngắn. Không gian quay trở lại xa cách. Và khoảng cách lòng người tuy xa mà gần. Nghĩ đến điều ấy mà nước mắt lại trào trên mi, không thể nào xuôi vào trong được nữa. Nước mắt cứ trào ra, pha lẫn cả nỗi đau thương mất mát với những quyến luyến bịn rịn. Trong quãng thời hạn chỉ còn được tính bằng ngày, bởi không nỡ xa Người nên tác giả ước nguyện hóa thân để ở lại bên Bác :

Muốn làm con chim hót quanh lăng

Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này .

Muốn được hóa thân thành con chim hót bên lăng, thành đóa hoa tỏa hương, thành cây tre trung hiếu cũng có nghĩa là ước nguyện để lại một thanh âm, một làn hương làm đẹp cõi Bác và lớn hơn đó là làm một cây tre trung hiếu. Khổ đầu bài thơ, từ hàng tre bên lăng liên tưởng tới hàng tre Nước Ta quật cường, kiên cường. Giờ đây, tác giả muốn làm một cây tre trong hàng tre ấy, muốn là một người con trung hiếu đi theo con đường mà Bác đã đi. Tất cả những ước nguyện đó đều xinh xắn, chân thành, tha thiết. Điệp ngữ muốn làm khởi đầu cho những dòng thơ càng tôn lên những ước nguyện xinh xắn ấy .

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá