Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Bình luận tội giết người – Điều 123 Bộ luật hình sự 2015

Đăng ngày 31 May, 2023 bởi admin

Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện.

Điều 123. Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

tội giết ngườia) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;

p) Tái phạm nguy hiểm;

q) Vì động cơ đê hèn.

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

Tham khảo: Bình luận khoa học Bộ Luật hình sự phần chung và tội phạm

Dấu hiệu pháp lý của tội giết người

a. Khách thể

Khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người của con người .
Trong số những quyền nhân thân, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người của con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất, không một quyền nào hoàn toàn có thể so sánh được. Bất cứ ai xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người của con người đều phải bị trừng trị nghiêm khắc .
Tội giết người xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người của con người trải qua sự tác động ảnh hưởng làm đổi khác thực trạng thông thường của đối tượng người tiêu dùng tác động ảnh hưởng – con người đang sống. Nếu hành vi nào đó ảnh hưởng tác động vào đối tượng người dùng không phải hay chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người của con người, thế cho nên, hành vi đó không phạm tội giết người .

b. Mặt khách quan

Hành vi khách quan

Hành vi khách quan của Tội giết người có thể được thực hiện qua hành động hoặc không hành động:

  • Hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm – quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm.
  • Không hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm – quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm.

Hành vi khách quan của Tội giết người là những biểu lộ của con người ra ngoài quốc tế khách quan có sự trấn áp của ý thức và sự tinh chỉnh và điều khiển của ý chí. Đây là điều kiện kèm theo cần, còn điều kiện kèm theo đủ là hành vi đó phải gây ra hoặc có năng lực gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp lý. Những hành vi không gây ra và cũng không có năng lực gây ra cái chết cho người khác hoặc tuy có năng lực gây ra cái chết cho người khác, nhưng không trái pháp lý ( như hành vi phòng vệ chính đáng, hành vi thi hành án tử hình … ) thì đều không phải là hành vi khách quan của Tội giết người .

Cần phân biệt Tội giết người với Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Nếu hành vi khách quan của Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân thì hành vi khách quan của Tội không tương hỗ người đang ở trong thực trạng nguy khốn đến tính mạng con người chỉ là hành vi cố ý không tương hỗ người đang ở trong thực trạng nguy hại đến tính mạng con người .
Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác lập đúng tội danh tất cả chúng ta cần phân biệt hai tội này qua những tiêu chuẩn cơ bản sau đây :

  • Thứ nhất, nếu nạn nhân bị chết do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì: Định Tội giết người khi người phạm tội vì mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra nên đã cố ý đặt nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Định tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng khi người phạm tội chỉ vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, trước đó người phạm tội không có bất kỳ hành vi cố ý nào xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của nạn nhân.
  • Thứ hai, nếu nạn nhân bị chết không phải do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà do hành vi của người phạm tội cố ý gây ra, thì người thực hiện hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân chỉ có thể phạm tội giết người mà không phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Hậu quả

Hậu quả của Tội giết người là thiệt hại do hành vi phạm tội giết người gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người của con người. Thiệt hại này được bộc lộ dưới dạng thiệt hại về sức khỏe thể chất – hậu quả chết người khác .Nghiên cứu hậu quả của Tội giết người có ý nghĩa quan trọng trong việc xác lập thời gian tội phạm triển khai xong. Vì Tội giết người là tội phạm có cấu thành vật chất nên thời gian triển khai xong của tội phạm này là thời gian nạn nhân đã chết sinh vật – quá trình sau cuối của sự chết mà ở đó sự sống của con người không gây ra và cũng không có năng lực phục sinh .

Phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Một là, về khách thể của tội phạm, nếu khách thể của Tội giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng con người của con người thì khách thể của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của người khác tuy cũng là quan hệ nhân thân, nhưng nội dung của nó lại là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe thể chất của con người ;Hai là, về lỗi của người phạm tội, nếu lỗi của người phạm tội giết người ( phạm tội chưa đạt ) chỉ là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân ( mong ước nạn nhân chết ), thì lỗi của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của người khác lại hoàn toàn có thể là : Lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của người khác ( mong ước hoặc bỏ mặc, gật đầu gây tổn thương khung hình cho nạn nhân ) hoặc Lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân ( bỏ mặc, đồng ý hậu quả nạn nhân chết nhưng hậu quả này đã không xảy ra ). Sở dĩ trường hợp cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân, nếu nạn nhân không chết thì không định Tội giết người ( chưa đạt ) mà chỉ hoàn toàn có thể định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của người khác, chính bới trong trường hợp này, người phạm tội không mong ước hậu quả chết người xảy ra. Do đó, nếu nạn nhân không chết thì không hề buộc người phạm tội phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về hậu quả chết người – điều mà họ không mong ước và nó cũng không xảy ra trên trong thực tiễn .
Để xác lập đúng tội danh, cần phân biệt Tội giết người ( phạm tội chưa đạt ) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe thể chất của người khác qua những tiêu chuẩn cơ bản sau đây :

  1. Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân thì định tội giết người (phạm tội chưa đạt). Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có khả năng làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn hậu quả nạn nhân chết xảy ra. Sở dĩ nạn nhân không chết là do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội;
  2. Nếu lỗi của người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân mà chỉ là lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân hoặc lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trong trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội phạm này).

Tham khảo: Bình luận tội Cố ý gây thương tích Điều 134 BLHS 2015

Mối quan hệ nhân quả

Hành vi khách quan của Tội giết người được coi là nguyên do gây ra hậu quả chết người khác nếu thỏa mãn nhu cầu ba điều kiện kèm theo :

  1. Hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian;
  2. Hành vi độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một hay nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người khác. Khả năng này chính là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Ví dụ: Khả năng gây chết người của hành động là dùng dao sắc nhọn đâm vào ngực nạn nhân hay của không hành động là không cho trẻ sơ sinh ăn, uống…;
  3. Hậu quả chết người khác đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan của Tội giết người hoặc là khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động.

Xác định đúng nguyên do dẫn đến hậu quả chết người khác không những giúp những cơ quan thực thi tố tụng làm sáng tỏ yếu tố có hành vi xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người của người khác xảy ra hay không mà còn hoàn toàn có thể Tóm lại ai là người đã triển khai hành vi đó .Thực tiễn tìm hiểu, truy tố, xét xử Tội giết người trong những năm gần đây cho thấy, không ít trường hợp, do xác lập không đúng mối quan hệ nhân quả nên đã xử oan hoặc bỏ lọt tội phạm. Ví dụ : Tại bản án hình sự xét xử sơ thẩm số 84 ngày 31/7/2011, Tòa án nhân dân tỉnh H đã công bố Bùi Văn H không phạm tội giết người. Tại quyết định hành động kháng nghị giám đốc thẩm số 12 / HS-TK ngày 31/3/2013, Chánh án TANC TC đề xuất Hội đồng Thẩm phán TAND TC hủy phần công bố Bùi Văn H không phạm tội giết người của Bản án hình sự xét xử sơ thẩm nêu trên để xét xử xét xử sơ thẩm lại theo hướng phán quyết Bùi Văn H về Tội giết người. Bởi lẽ, Bùi Văn H là người tham gia triển khai tội phạm một cách tích cực. Khi thấy anh T chạy từ trong nhà ra, H đã cầm côn đánh liên tục vào anh T làm anh T bị ngã, tạo điều kiện kèm theo để Nh xông vào dùng dao đâm anh T. Trên người anh T không phải duy nhất chỉ có vết dao đâm của Nh mà có rất nhiều vết thương bầm tím do vật tày gây ra tương thích với hung khí là côn do H sử dụng. Vì vậy, có đủ địa thế căn cứ để Kết luận hậu quả anh T bị chết là do hành vi phạm tội của Nh, Lê Đình Th, Lê Đình H và Bùi Văn H gây ra .

c. Chủ thể

Chủ thể của tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng là con người có đủ điều kiện kèm theo để có lỗi khi thực thi hành vi nguy hại cho xã hội. Người có đủ điều kiện kèm theo để có lỗi, để trở thành chủ thể của tội phạm phải là người có năng lượng nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự – năng lượng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi và năng lượng điều khiển và tinh chỉnh hành vi theo yên cầu tất yếu của xã hội. Để có được năng lượng này con người phải đạt độ tuổi nhất định. Do vậy, độ tuổi cũng là điều kiện kèm theo của chủ thể của Tội giết người .
Theo lao lý tại khoản 1 Điều 9, khoản 2 Điều 12 và Điều 123 BLHS năm năm ngoái thì chủ thể của Tội giết người là người từ đủ 14 tuổi trở lên .

d. Mặt chủ quan

Lỗi của người phạm tội giết người có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.

Theo lao lý tại Điều 10 BLHS năm năm ngoái thì lỗi cố ý trực tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy khốn cho xã hội, nhiều năng lực hoặc tất yếu làm nạn nhân chết nhưng vẫn mong ước nạn nhân chết .
Lỗi cố ý gián tiếp giết người là lỗi trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hại cho xã hội, hoàn toàn có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong ước nhưng vẫn có ý thức để mặc hoặc gật đầu hậu quả nạn nhân chết .

Nghiên cứu lỗi của người phạm giết người giúp phân biệt Tội giết người với Tội vô ý làm chết người. Nếu lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý (với cả hành vi gây ra cái chết cho nạn nhân và cả hậu quả nạn nhân chết) thì lỗi của người phạm tội vô ý làm chết người chỉ là lỗi vô ý (vô ý với cả hành vi gây ra cái chết cho nạn nhân và cả hậu quả nạn nhân chết).

Để định đúng tội danh, cần phân biệt hai tội này qua tiêu chuẩn cơ bản sau đây :

  1. Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là cố ý thì định Tội giết người. Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn nạn nhân chết hoặc chấp nhận hậu quả nạn nhân chết.
  2. Nếu lỗi của người phạm tội với cái chết của nạn nhân là vô ý thì có thể định tội vô ý làm chết người. Đây là trường hợp người phạm tội không những không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra, cũng không có thái độ “thờ ơ mặc kệ cho hậu quả đó xảy ra mà còn không thấy trước được hậu quả đó mà đáng lẽ ra phải thấy hoặc có thể thấy hoặc tuy có thấy trước hậu quả có thể xảy ra, nhưng chủ quan tin vào một điều kiện cụ thể nào đó sẽ làm cho hậu quả không xảy ra”.

Ngoài ý nghĩa trong việc định tội danh, xác lập đúng hình thức lỗi còn có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hành động hình phạt. Bởi lẽ, trong trường hợp giết người với lỗi cố ý gián tiếp, sự chăm sóc của người phạm tội không hướng vào hậu quả chết người khác mà hướng vào mục tiêu khác. Do đó, toàn bộ những gì xảy ra so với nạn nhân do hành vi phạm tội đưa lại đều hoàn toàn có thể không có ảnh hưởng tác động gì đến người phạm tội. Ngược lại, trong trường hợp giết người với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội không những hướng tổng thể sự chú ý quan tâm vào việc gây ra hậu quả chết người khác mà còn cố gắng nỗ lực và quyết tâm gây ra hậu quả đó. Họ sẽ liên tục hành vi, thậm chí còn còn hành vi cương quyết và can đảm và mạnh mẽ hơn chừng nào còn có biểu lộ là nạn nhân chưa chết, chưa bị tổn thương khung hình hoặc chưa thể chết, chưa thể bị tổn thương khung hình được. Cho nên, nếu những diễn biến khác tương tự, người phạm tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp phải bị xử phạt nặng hơn người phạm tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp .
Khác tín hiệu lỗi, trong mặt chủ quan của Tội giết người, động cơ, mục tiêu phạm tội không phải là tín hiệu bắt buộc .
Tuy nhiên, ở một số cấu thành tội phạm mà mặt khách quan cũng đòi hỏi dấu hiệu hành vi gây ra cái chết cho người khác, nhưng dấu hiệu động cơ hoặc mục đích phạm tội lại được quy định là dấu hiệu bắt buộc thì việc xác định đúng động cơ, mục đích phạm tội sẽ giúp định đúng tội danh, xác định đúng khung hình phạt và phân biệt được. Tội giết người với một số tội phạm khác cũng có hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân. Cụ thể là: Tuy nhiên, ở một số ít cấu thành tội phạm mà mặt khách quan cũng yên cầu tín hiệu hành vi gây ra cái chết cho người khác, nhưng tín hiệu động cơ hoặc mục tiêu phạm tội lại được pháp luật là tín hiệu bắt buộc thì việc xác lập đúng động cơ, mục tiêu phạm tội sẽ giúp định đúng tội danh, xác lập đúng khung hình phạt và phân biệt được. Tội giết người với 1 số ít tội phạm khác cũng có hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân. Cụ thể là :

  1. Cố ý gây ra cái chết cho người khác (thường là cán bộ, công chức hoặc công dân đang giữ những trọng trách nhất định) nhằm chống chính quyền nhân dân thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113); không nhằm chống chính quyền nhân dân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người.
  2. Người nào trong khi thi hành công vụ, xuất phát từ động cơ thi hành công vụ mà cố ý gây ra cái chết cho người khác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127); nếu do hống hách, coi thường tính mạng người khác hoặc do tư thù cá nhân thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người.
  3. Cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125); nếu không thỏa mãn các điều kiện trên thì (mới) phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
  4. Người nào vì muốn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà cố ý gây ra cái chết cho người đang xâm phạm những lợi ích nói trên một cách rõ ràng quá mức cần thiết thì không phạm tội giết người mà phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126).

Tình tiết định khung tăng nặng của Tội giết người

Giết 02 người trở lên (điểm a khoản 1 Điều 123)

Giết 02 người trở lên là trường hợp người phạm tội cố ý gây ra cái chết cho 02 người khác trở lên một cách trái pháp lý. Người phạm tội trong trường hợp này có dự tính giết từ 02 người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc, đồng ý hậu quả 02 người chết trở lên xảy ra. Nếu người phạm tội có ý thức bỏ mặc, đồng ý hậu quả chết người xảy ra ( lỗi cố ý gián tiếp ) thì phải có từ 02 người chết trở lên mới vận dụng diễn biến định khung tăng nặng này .
Nếu có 02 người chết, nhưng lại có 02 người chết do lỗi vô ý của người phạm tội thì không coi là giết nhiều người mà thuộc trường hợp phạm hai tội : “ Tội giết người ” và “ Tội vô ý làm chết người ”. Nếu có 02 người chết, nhưng chỉ có 01 người thuộc trường hợp lao lý tại Điều 123 BLHS, còn người kia lại thuộc trường hợp trong trạng thái niềm tin bị kích động mạnh hoặc do vượt quá số lượng giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc thuộc trường hợp làm chết người trong khi thi hành công vụ thì cũng không định tội giết 02 người trở lên mà tùy từng trường hợp đơn cử, người phạm tội sẽ bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự về Tội giết người và một tội khác ( giết người trong trạng thái niềm tin bị kích động mạnh hoặc giết người do vượt quá số lượng giới hạn phòng vệ chính đáng … ) .

Giết người dưới 16 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 123)

Giết người dưới 16 tuổi được lao lý là diễn biến định khung tăng nặng của Tội giết người, vì hành vi này không những “ phá vỡ ” niềm hạnh phúc của mái ấm gia đình, làm “ thui chột ”, “ lụi tàn ” một “ gia chủ ” là thế hệ tương lai của quốc gia mà còn biểu lộ bản tính hèn kém và gian ác của can phạm. Xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ nhỏ là bảo vệ tương lai của quốc gia, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp kiến thiết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ những người không có năng lực tự vệ nên BLHS đã pháp luật diễn biến này là diễn biến định khung tăng nặng của tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng .

Giết phụ nữ mà biết là có thai (điểm c khoản 1 Điều 123)

Giết phụ nữ mà biết là có thai là trường hợp người phạm tội biết rõ người mình giết là phụ nữ đang có thai ( không kể tháng thứ mấy ). Nếu nạn nhân là người tình của người phạm tội, người phạm tội giết nạn nhân để trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm thì còn hoàn toàn có thể bị vận dụng thêm diễn biến định khung tăng nặng giết người vì động cơ đê hèn .

Nếu người bị giết có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không biết họ đang có thai thì không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này. Ngược lại, trong trường hợp người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tội lại tưởng lầm là nạn nhân có thai và sự lầm tưởng này của người phạm tội là có căn cứ, thì người phạm tội vẫn bị xét xử về Tội giết người với tình tiết định khung tăng nặng “giết phụ nữ mà biết là có thai”.

Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (điểm d khoản 1 Điều 123)


Giết người đang thi hành công vụ
là cố ý gây ra cái chết cho người đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội có thẩm quyền giao phó. Nhiệm vụ được giao phó có thể là đương nhiệm do nghề nghiệp quy định như: Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ; thầy thuốc đang điều trị tại bệnh viện; thầy giáo đang giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan nghỉ mát; Thẩm phán đang xét xử tại phiên toà; thanh niên cờ đỏ, dân quân tự vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự ở nơi công cộng…

Cũng hoàn toàn có thể được coi là giết người đang thi hành công vụ trong 1 số ít trường hợp nạn nhân là những công dân được kêu gọi làm trách nhiệm ( như tuần tra, canh gác … ) theo kế hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ship hàng quyền lợi chung của nhà nước, của xã hội hoặc nạn nhân tuy không phải là những công dân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kêu gọi, nhưng đã tự nguyện tham gia giữ gìn bảo mật an ninh chính trị, trật tự bảo đảm an toàn xã hội trong một số ít nghành nhất định như : Đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn ; can ngăn những vụ đánh nhau ở nơi công cộng …

Khác với trường hợp giết người đang thi hành công vụ, giết người vì lý do công vụ của nạn nhân là trường hợp giết nạn nhân không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó. Thông thường, nạn nhân là người đã thi hành một nhiệm vụ và vì thế đã làm cho người phạm tội thù oán nên đã giết họ. Tuy nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được giao, nhưng người có hành vi giết người cho rằng nếu để người này sống, nhiệm vụ mà họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình, nên đã giết nạn nhân trước.

Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình (điểm đ khoản 1 Điều 123)

Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình là trường hợp người phạm tội đã cố ý gây ra cái chết cho những người mà họ phải kính trọng, phải biết ơn, đó là ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình .
Hành vi giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình đã làm tăng đáng kể mức độ lỗi của người phạm tội so với trường hợp giết người thường thì, làm đảo lộn những giá trị xã hội và báo động thực trạng xuống cấp trầm trọng nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách. Bởi lẽ, hành vi này không riêng gì vi phạm pháp lý, vi phạm nghiêm trọng đạo đức, mất hết “ nhân tính ”, “ dám ” giết hại cả những người mà mình phải tôn thờ, kính trọng .Việc BLHS năm năm ngoái lao lý diễn biến định khung tăng nặng giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình nhằm mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội ý thức tôn trọng ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo ; giáo dục ý thức tôn trọng pháp lý và giữ gìn đạo đức xã hội .

Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm e khoản 1 Điều 123)

Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực thi một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt quan trọng nghiêm trọng là trường hợp giết người mà liền trước hoặc ngay sau khi giết người, người phạm tội lại triển khai một tội phạm có đặc thù và mức độ nguy hại cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS năm năm ngoái lao lý so với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù hoặc một tội phạm có đặc thù và mức độ nguy khốn cho xã hội đặc biệt quan trọng lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS lao lý so với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình .

Ví dụ: Ngay sau khi giết nạn nhân, người phạm tội lại thực hiện Tội cướp tài sản của người khác không có quan hệ gì với nạn nhân.

Tuy chưa có lý giải hoặc hướng dẫn như thế nào là “ liền trước đó ” hoặc “ ngay sau đó ”, nhưng qua thực tiễn xét xử chỉ coi là liền trước hoặc ngay sau hành vi giết người, nếu như tội phạm được thực thi trước đó hoặc sau đó về thời hạn phải liền kề với hành vi giết người hoàn toàn có thể trong khoảng chừng thời hạn vài giờ đồng hồ đeo tay hoặc là trong ngày, nếu tội phạm thực thi trước đó hoặc sau đó có khoảng cách nhất định không còn liền với hành vi giết người thì không coi là giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt quan trọng nghiêm trọng .
Trường hợp giết người này khác với trường hợp giết người để triển khai hoặc che giấu tội phạm khác ở chỗ : Tội phạm mà người phạm tội thực thi trước hoặc sau khi giết nạn nhân không tương quan đến Tội giết người và phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt quan trọng nghiêm trọng .

Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác (điểm g khoản 1 Điều 123)

Giết người để triển khai tội phạm khác là trường hợp sau khi giết nạn nhân, người phạm tội còn triển khai tội phạm khác. Tội phạm được thực thi sau khi giết người phải có tương quan mật thiết với hành vi giết người. Hành vi giết người là tiền đề, là phương tiện đi lại để thực thi tội phạm sau, nếu không giết người thì không thực thi được tội phạm sau. Ví dụ : Giết người để cướp gia tài, giết người để khủng bố, giết người để trốn đi quốc tế …
Giết người để che giấu tội phạm khác là trường hợp trước khi giết nạn nhân, người phạm tội đã triển khai tội phạm khác và để che giấu tội phạm đó, người phạm tội đã giết nạn nhân. Thông thường sau khi phạm một tội có rủi ro tiềm ẩn bị lộ, người phạm tội cho rằng chỉ có giết người thì tội phạm mà mình triển khai mới không bị phát hiện. Người bị giết trong trường hợp này thường là người đã biết hành vi phạm tội hoặc là người cùng triển khai tội phạm với người phạm tội .

Ví dụ: A phạm tội trộm cắp tài sản của C bị B phát hiện. Để che giấu tội phạm trộm cắp tài sản, A đã giết B.

Giết người để thực thi hoặc che giấu tội phạm khác là trường hợp giết người xuất phát từ động cơ để triển khai hoặc che giấu tội phạm khác. Tội phạm khác hoàn toàn có thể là tội phạm bất kể do BLHS lao lý, không bắt buộc phải là tội phạm rất nghiêm trọng hay tội phạm đặc biệt quan trọng nghiêm trọng và tội phạm khác cũng không bắt buộc phải được triển khai liền trước đó hoặc ngay sau khi người phạm tội giết nạn nhân .

Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (điểm h khoản 1 Điều 123)

Giết người để lấy bộ phận khung hình của nạn nhân là trường hợp giết người vì mục tiêu để lấy bộ phận khung hình của nạn nhân và khi có bộ phận khung hình của nạn nhân, người phạm tội hoàn toàn có thể dùng để sửa chữa thay thế bộ phận đó cho mình hoặc cho người thân trong gia đình của mình hoặc để bán cho người khác .
Nếu vì quá căm tức, uất ức hoặc bị kích động mạnh mà người phạm tội sau khi giết nạn nhân đã lấy bộ phận khung hình của nạn nhân để thỏa mãn nhu cầu sự căm tức, uất ức hoặc kích động mạnh thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ : Sau khi giết người, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn. Trường hợp này hoàn toàn có thể vận dụng diễn biến định khung tăng nặng “ thực thi tội phạm một cách hung tàn ” .

Thực hiện tội phạm một cách man rợ (điểm i khoản 1 Điều 123)

Thực hiện tội phạm một cách tàn khốc là trường hợp giết người làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như : Mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết … Các hành vi này thường được người phạm tội triển khai trước khi tội phạm triển khai xong, tức là trước khi nạn nhân bị chết. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng coi những hành vi nêu trên để che giấu tội phạm là hành vi thực thi tội phạm một cách tàn tệ .

Ví dụ: Sau khi đã giết người, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng theo chúng tôi nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu Tội giết người cũng là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” thì nên quy định trường hợp phạm tội này là “phạm tội một cách man rợ”, vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả hành vi khách quan và ý thức chủ quan của người phạm tội trong cấu thành tội phạm giết người.

Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp (điểm k khoản 1 Điều 123)

Là trường hợp người phạm tội đã sử dụng nghề nghiệp của mình để làm phương tiện đi lại giết người thuận tiện và cũng thuận tiện che giấu tội phạm như : Bác sĩ giết bệnh nhân, nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do bệnh hiểm nghèo ; bảo vệ bắn chết người, nhưng lại vu cho họ là kẻ cướp. Lợi dụng nghề nghiệp để giết người là phạm tội với thủ đoạn rất xảo quyệt, nên nhà làm luật không riêng gì dừng lại ở pháp luật là diễn biến tăng nặng mà coi thủ đoạn này là diễn biến định khung hình phạt .
Phải xác lập rõ người phạm tội đã tận dụng nghề nghiệp của mình để giết người thì mới thuộc trường hợp phạm tội này. Nếu người có hành vi giết người bằng chiêu thức có đặc thù nghề nghiệp, nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà lại tận dụng người có nghề nghiệp đó rồi trải qua người này triển khai ý đồ của mình thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ : Một kẻ đã đánh cắp ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có thương hiệu như ống thuốc thật, nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết bệnh nhân mà y có thù oán .

Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người (điểm l khoản 1 Điều 123)

Giết người bằng chiêu thức có năng lực làm chết nhiều người là trường hợp người phạm tội đã sử dụng những công cụ, phương tiện đi lại hoặc thủ đoạn phạm tội có năng lực làm chết từ 02 người trở lên như : Ném lựu đạn vào chỗ đông người ; cho thuốc độc vào nguồn nước, bể nước công cộng ; bắn súng vào tàu, xe, ca nô khi đang có nhiều người ở trên …
Giết người bằng chiêu thức có năng lực làm chết nhiều người không những rình rập đe dọa gây ra hậu quả chết nhiều người mà còn biểu lộ mức độ gian ác của hành vi phạm tội. Do đó, BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và cả BLHS năm năm ngoái đều pháp luật diễn biến “ giết người bằng giải pháp có năng lực làm chết nhiều người ” là diễn biến định khung tăng nặng .

Thuê giết người hoặc giết người thuê (điểm m khoản 1 Điều 123)

Thuê giết người là trường hợp trả cho người khác tiền hoặc quyền lợi vất chất để họ giết người mà mình muốn giết. Cũng giống như những trường hợp thuê làm một việc, người phạm tội vì không trực tiếp thực thi hành vi giết người nên đã dùng tiền hoặc quyền lợi vật chất khác để thuê người khác giết người. Người trực tiếp giết người trong trường hợp này là người giết thuê .
Giết người thuê là trường hợp người phạm tội lấy việc giết người làm phương tiện đi lại để kiếm tiền hoặc quyền lợi vật chất khác. Vì muốn có tiền nên người phạm tội đã nhận lời với người thuê mình để giết một người khác. Việc trừng trị nặng người giết thuê là nhằm mục đích ngăn ngừa thực trạng “ đâm thuê, chém mướn ”, nhất là trong nền kinh tế thị trường, ở nơi này hoặc nơi khác đã Open không ít người chuyên hoạt động giải trí đâm thuê, chém mướn .
Thuê giết người và giết người thuê có mối quan hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp giết người này xảy ra ( có người thuê, mới người làm thuê ). Thông thường việc giết người thuê và thuê giết người đồng thời là trường hợp giết người có tổ chức triển khai, nhưng cũng hoàn toàn có thể chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường .

Có tính chất côn đồ (điểm n khoản 1 Điều 123)

Giết người có đặc thù côn đồ là trường hợp giết người vô cớ ( không có nguyên cớ ) hoặc cố ý sử dụng những nguyên cớ li ti để giết người, bộc lộ ý thức coi thường pháp lý, coi thường tính mạng con người người khác và những quy tắc trong đời sống .
Khi xác lập trường hợp giết người có đặc thù côn đồ cần phải có quan điểm xem xét tổng lực mối quan hệ giữa người phạm tội với nạn nhân, thái độ của người phạm tội khi gây án, nguyên do nào dẫn đến việc người phạm tội giết người …, tránh xem xét một cách phiến diện như : Chỉ nhấn mạnh vấn đề đến nhân thân người phạm tội hoặc khu vực xảy ra vụ giết người hay hành vi đơn cử gây ra cái chết cho nạn nhân …

Có tổ chức (điểm o khoản 1 Điều 123)

Giết người có tổ chức triển khai là trường hợp giết người có sự cấu kết ngặt nghèo giữa những người cùng thực thi tội phạm giết người. Nếu nhiều người cùng tham gia vào một vụ án giết người, nhưng không có sự cấu kết ngặt nghèo mà chỉ có sự đống ý mang đặc thù hời hợt thì không phải là giết người có tổ chức triển khai .
Thực tiễn xét xử cho thấy, do chưa có ý niệm thống nhất cho nên vì thế một số ít Tòa án đã nhầm lẫn phạm tội có tổ chức triển khai với những trường hợp đồng phạm khác. Vì vậy, để phân biệt phạm tội có tổ chức triển khai với những trường hợp đồng phạm khác cần phải chú ý quan tâm đến những yếu tố sau đây : Phạm tội có tổ chức triển khai phải có sự câu kết ngặt nghèo giữa những người cùng thực thi tội phạm .Trong thực tiễn, sự câu kết này hoàn toàn có thể bộc lộ dưới những dạng sau đây : ( 1 ) Những người đồng phạm giết người đã tham gia một tổ chức triển khai phạm tội như : Hội, băng, ổ … có những tên chỉ huy, đứng đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức triển khai phạm tội giết người không có những tên chỉ huy, đứng đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động giải trí phạm tội. ( 2 ) Những người đồng phạm giết người đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. ( 3 ) Những người đồng phạm giết người tuy chỉ triển khai tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức triển khai thực thi tội phạm theo một kế hoạch được giám sát kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị sẵn sàng phương tiện đi lại hoạt động giải trí và có khi còn chuẩn bị sẵn sàng cả kế hoạch che giấu tội phạm .

Ví dụ: Giết người mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm…

Tái phạm nguy hiểm (điểm p khoản 1 Điều 123)

Người phạm tội giết người bị vận dụng diễn biến định khung tăng nặng tái phạm nguy khốn nếu họ thuộc một trong hai trường hợp sau đây :

  • Một là, đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người. Ví dụ: A đã bị kết án về tội cướp tài sản chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người.
  • Hai là, đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người. Ví dụ: A đã tái phạm về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi giết người.

Vì động cơ đê hèn (điểm q khoản 1 Điều 123)

Giết người vì động cơ đê hèn là trường hợp giết người vì những động cơ như2 : Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác ; giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân ; giết người tình mà biết họ đã có thai với mình để trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm ; giết chủ nợ để trốn nợ ; giết người để cướp gia tài ; giết người là ân nhân của mình … Ngoài những trường hợp đã nêu trên, thực tiễn xét xử còn coi trường hợp vì không giết được người mình muốn giết mà giết người thân trong gia đình của họ là giết người vì động cơ đê hèn .

Hình phạt đối với Tội giết người

Hình phạt chính so với Tội giết người

Hình phạt chính đối với Tội giết người theo quy định tại khoản 1 Điều 123

Tại khoản 1 Điều 123 BLHS năm năm ngoái lao lý : Người nào giết người thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình : a ) Giết 02 người trở lên ; b ) Giết người dưới 16 tuổi ; c ) …
Thực tiễn xét xử cho thấy, có bị cáo phạm tội giết người chỉ thuộc một trong những trường hợp ( chỉ có 01 diễn biến định khung tăng nặng ) lao lý tại khoản 1 Điều 123 nhưng vẫn hoàn toàn có thể bị phạt tử hình. Trong khi đó, có bị cáo phạm tội giết người thuộc nhiều trường hợp ( có nhiều diễn biến định khung tăng nặng ) pháp luật ở khoản 1 Điều 123 nhưng chỉ bị xử phạt dưới 20 năm tù. Vì vậy, không nên địa thế căn cứ vào số lượng những trường hợp phạm tội ( những diễn biến định khung tăng nặng ) mà phải xem xét đặc thù và mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, những diễn biến giảm nhẹ và tăng nặng nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự để quyết định hành động hình phạt so với người phạm Tội giết người .
Khi quyết định hành động hình phạt so với người phạm Tội giết người theo khoản 1 Điều 123 BLHS năm năm ngoái, Tòa án cần địa thế căn cứ vào những pháp luật về quyết định hành động hình phạt tại Chương VIII BLHS năm năm ngoái ( từ Điều 50 đến Điều 59 ) .

Hình phạt chính đối với Tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 123

Khoản 2 Điều 123 BLHS lao lý : Người nào giết người không thuộc những trường hợp pháp luật tại khoản 1 nêu trên, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm .
Đây là trường hợp giết người thường thì, không có những diễn biến định khung tăng nặng. Về kỹ thuật lập pháp, trường hợp phạm tội giết người này chính là cấu thành tội phạm cơ bản của Tội giết người, nhưng do truyền thống cuội nguồn lập pháp của nước ta về Tội giết người nên nhà làm luật đã thiết kế xây dựng cấu thành tội phạm tăng nặng trước cấu thành tội phạm cơ bản. Vì vậy, không được coi khoản 2 Điều 123 BLHS là cấu thành tội phạm giảm nhẹ của Tội giết người như trong một số ít tội phạm xâm phạm bảo mật an ninh vương quốc .
Khi quyết định hành động hình phạt so với người phạm Tội giết người theo khoản 2 Điều 123 BLHS năm năm ngoái, Tòa án cần địa thế căn cứ vào những lao lý về quyết định hành động hình phạt tại Chương VIII BLHS năm năm ngoái ( từ Điều 50 đến Điều 59 ) .
Nếu người phạm Tội giết người có tối thiểu hai tình tiết giảm nhẹ lao lý tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm năm ngoái, không có diễn biến tăng nặng, thì Tòa án hoàn toàn có thể quyết định hành động một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được vận dụng ( dưới 07 năm tù ) .
Nếu người phạm Tội giết người có nhiều diễn biến tăng nặng lao lý tại Điều 52 BLHS năm năm ngoái, không có diễn biến giảm nhẹ thì hoàn toàn có thể bị phạt đến 15 năm tù .

Hình phạt chính đối với Tội giết người theo quy định tại khoản 3 Điều 123

Khoản 3 Điều 123 BLHS pháp luật : Người sẵn sàng chuẩn bị phạm tội giết người, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm .
Chuẩn bị phạm tội giết người là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện đi lại hoặc tạo ra những điều kiện kèm theo khác để thực thi tội phạm hoặc xây dựng, tham gia nhóm tội phạm giết người. Khoản 3 Điều 123 là cách lao lý mới của BLHS năm năm ngoái. Bởi lẽ, trong BLHS năm 1999, hành vi sẵn sàng chuẩn bị phạm tội giết người chỉ được pháp luật chung ( với nội dung là : Chỉ người nào sẵn sàng chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt quan trọng nghiêm trọng mới phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự về tội định thực thi ) trong phần chung của BLHS, không được lao lý trong một khoản của từng tội phạm, phần những tội phạm của BLHS. Cách lao lý mới này tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho việc điều tra và nghiên cứu và vận dụng pháp luật của BLHS nói chung và pháp luật của BLHS về Tội giết người nói riêng .

Hình phạt bổ sung đối với Tội giết người

Khoản 4 Điều 123 BLHS lao lý : Người phạm tội giết người, ngoài những hình phạt chính như đã nêu trên, còn hoàn toàn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm việc làm nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm .
Đây là những hình phạt bổ trợ hoàn toàn có thể được vận dụng kèm theo hình phạt chính trong những trường hợp thiết yếu. Đối với Tội giết người, nếu Tòa án vận dụng hình phạt tử hình so với người phạm tội thì không hề vận dụng hình phạt bổ trợ vì những hình phạt bổ trợ là hình phạt phải thi hành sau khi chấp hành xong hình phạt tù, một người đã bị phán quyết tử hình thì không có việc chấp hành xong hình phạt tù, nếu vận dụng hình phạt bổ trợ so với người bị án tử hình sẽ trở thành không có ý nghĩa .
Riêng so với hình phạt tù chung thân cũng có quan điểm cho rằng, Tòa án hoàn toàn có thể vận dụng hình phạt bổ trợ, vì người bị phạt tù chung thân hoàn toàn có thể được giảm thời hạn tù và trên trong thực tiễn chưa có người nào bị phạt tù chung thân lại ở tù suốt đời. Vì vậy, việc vận dụng hình phạt bổ trợ so với họ là thiết yếu và như vậy mới bảo vệ tính công minh với người bị phạt tù có thời hạn .

Tuy nhiên, hình phạt tù chung thân là hình phạt tù không có thời hạn, nếu Toà án áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thì khi tuyên án, Toà án không thể quyết định cấm cư trú hoặc quản chế người phạm tội mấy năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù, quyết định như vậy xét về góc độ pháp lý là không chính xác, vì không ai biết khi nào người phạm tội bị phạt tù chung thân chấp hành xong hình phạt.

Trừ trường hợp BLHS pháp luật “ người bị phạt tù chung thân nếu được giảm hình phạt xuống tù có thời hạn thì Tòa án sẽ vận dụng hình phạt bổ trợ so với họ hoặc nếu vận dụng hình phạt bổ trợ so với người bị phạt tù chung thân thì hình phạt bổ trợ sẽ được thi hành nếu người bị phán quyết tù chung thân được giảm hình phạt xuống tù có thời hạn theo pháp luật của BLHS ” .
Việc lao lý hình phạt bổ trợ hoàn toàn có thể vận dụng so với người phạm Tội giết người không những tương hỗ cho hình phạt chính, tăng năng lực thành viên hóa hình phạt, mà còn giúp đạt được mục tiêu của hình phạt là không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp lý và những quy tắc của đời sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới ; giáo dục người khác tôn trọng pháp lý, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung và Tội giết người nói riêng. / .

Nguồn: Kiểm sát online

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá