Networks Business Online Việt Nam & International VH2

Vướng mắc khi xử lý tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 Bộ luật hình sự | VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

Đăng ngày 05 June, 2023 bởi admin

Thời gian qua, tình hình tội phạm liên quan đến việc làm, sử dụng tài liệu, giấy tờ giả có chiều hướng tăng nhất là việc làm giả, sử dụng các loại giấy tờ liên quan đến y tế, văn bằng, chứng chỉ cấp cho cá nhân…. Tuy nhiên, việc xử lý các hành vi liên quan đến loại tội phạm này còn có những vướng mắc cần được giải đáp, hướng dẫn.

1. Khó khăn khi xử lý hành vi sử dụng giấy tờ giả

Điều 341 Bộ luật hình sự năm pháp luật 02 tội độc lập đó là tội “ Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức triển khai ” và tội “ Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức triển khai ”. Như vậy, hành vi khách quan trong cấu thành cơ bản của những tội này là hành vi “ làm ” hoặc hành vi “ sử dụng ” ; chỉ cần người nào đủ năng lượng nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự và có những hành vi khách quan nêu trên là hoàn toàn có thể xem xét truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự theo lao lý tại Điều 341 BLHS. Tuy nhiên, trên thực tiễn, thực trạng người dân tự đặt mua trên mạng rồi sử dụng những sách vở giả như chứng minh thư nhân dân, giấy phép lái xe, giấy khám sức khỏe thể chất, văn bằng, chứng từ … giả để lừa dối cơ quan, tổ chức triển khai vì mục tiêu cá thể nhưng không được xem xét, giải quyết và xử lý. Đơn cử như hành vi đặt mua Giấy phép lái xe giả rồi sử dụng để xuất trình khi bị Cảnh sát giao thông vận tải kiểm tra. Trong trường hợp này, rõ ràng hành vi của người dùng Giấy phép lái xe giả để lừa dối cơ quan công an đã thỏa mãn nhu cầu hành vi khách quan của tội “ sử dụng tài liệu giả ” theo lao lý của Điều 341 BLHS và thiết yếu phải xem xét nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, hành vi sử dụng sách vở giả nêu trên chưa gây ra hậu quả, chưa gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức triển khai ; mặt khác, hành vi này diễn ra tương đối thông dụng nên không thiết yếu phải truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự, không hề giải quyết và xử lý một cách tràn ngập. Đây là những vướng mắc cần sớm hướng dẫn để vận dụng thống nhất .

2. Căn cứ để xác định số lượng con dấu, tài liệu giả là tình tiết định khung tăng nặng

Việc tính số lượng con dấu, tài liệu giả để xác lập diễn biến định khung tăng nặng lao lý tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 341 BLHS cũng gặp khó khăn vất vả, vướng mắc. Thực tiễn đã xảy ra trường hợp : Thông qua mạng xã hội, A đã đặt làm giả 02 Bằng tốt nghiệp và 02 Bảng điểm của trường Đại học X mang tên mình và mang tên Nguyễn Thị L. Sau khi nhận được bằng và bảng điểm giả, A liên tục mang đến Ủy Ban Nhân Dân phường để xác nhận “ Sao y bản chính ” so với Bằng tốt nghiệp và Bảng điểm của mình, mỗi loại 02 bản ( tổng số 04 bản ) mục tiêu để làm hồ sơ dự thi tuyển công chức. Do không có thiết bị kiểm tra nên quản trị Ủy Ban Nhân Dân phường đã ký và đóng dấu xác nhận “ sao đúng với bản chính ” so với Bằng tốt nghiệp và Bảng điểm của Nguyễn Văn A. Khi vụ án bị phát hiện, CQĐT đã thu giữ được 02 Bằng tốt nghiệp, 02 Bảng điểm giả ( bản chính ) và 02 bản sao Bằng tốt nghiệp, 02 bản sao Bảng điểm giả đều mang tên A đã được Ủy Ban Nhân Dân phường xác nhận “ sao đúng với bản chính ”. Trong trường hợp này, có 02 quan điểm về việc tính số lượng tài liệu giả, đơn cử là :
Quan điểm thứ nhất : Nguyễn Văn A đã dữ thế chủ động liên hệ để làm tổng số 04 tài liệu giả ( 02 Bằng tốt nghiệp, 02 Bảng điểm của 02 người khác nhau ), từ tài liệu giả nói trên, A liên tục đề xuất xác nhận để làm 04 tài liệu khác có nội dung trá hình, mục tiêu làm hồ sơ dự thi tuyển công chức. Như vậy, tổng số tài liệu A đã làm giả là 08 tài liệu. Vì vậy, cần truy tố A theo điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật hình sự ( làm 06 con dấu, tài liệu hoặc sách vở khác trở lên ). Quan điểm này dựa trên lập luận sau :
– Về thực chất, bản chính đã là tài liệu giả thì những bản tài liệu được sao từ bản chính đó nặc dù đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận “ sao đúng với bản chính ” thì vẫn phải coi là tài liệu giả ( có nội dung giả tạo ) ; Điều 341 BLHS chỉ pháp luật về số lượng sách vở, tài liệu giả, không pháp luật về loại sách vở, tài liệu giả nên những tài liệu được xác lập lầ giả thì được cộng theo số học .

– Theo luật công chứng năm 2014 và thực tiễn cho thấy, các bản sao đã được chứng thực “sao đúng với bản chính” một cách hợp pháp thì có giá trị tương đương với bản chính, tài liệu gốc, có thể sử dụng để thay cho bản chính, tài liệu gốc; việc A trực tiếp đem bằng tốt nghiệp và bảng điểm giả đến UBND phường chứng thực “sao đúng với bản chính” với số lượng 04 bản cũng là hành vi làm giả tài liệu và A phải chịu trách nhiệm về số lượng tài liệu giả này.  

Quan điểm thứ hai : Nguyễn Văn A chỉ phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự so với 04 tài liệu giả ( 02 bằng tốt nghiệp và 02 bảng điểm của trường Đại học X ) ; so với những bản tài liệu giả đã được Ủy Ban Nhân Dân phường xác nhận “ sao đúng với bản chính ” thực ra được phô tô ( sao ) từ chính tài liệu giả do A đặt làm ; về hình thức, nội dung là giống nhau, nó không được làm giả bằng những chiêu thức thường thì. Do đó, vận dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì không coi đây là tài liệu để tính số lượng tài liệu giả .

3. Vướng mắc khi áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”

Cũng trong ví dụ nêu trên, sau khi A bị khởi tố về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức triển khai ; trong thời hạn tìm hiểu, A liên tục có hành vi đặt làm 04 Giấy khám sức khỏe thể chất giả ( những giấy khám sức khỏe thể chất này đều chưa ghi thông tin của người khám cũng như tác dụng khám ) mục tiêu để bán lại kiếm lời ; hành vi này của A bị bắt quả tang ; CQĐT khởi tố so với A về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức triển khai theo khoản 2 Điều 341 BLHS, đồng thời nhập 02 vụ án để tìm hiểu chung. Quá trình tìm hiểu, truy tố, xét xử có quan điểm khác nhau về việc vận dụng diễn biến tăng nặng “ phạm tội 02 lần trở lên ” so với A .

Quan điểm thứ nhất: Mặc dù A thực hiện 02 lần phạm tội độc lập nhưng do A bị khởi tố, truy tố, xét xử cùng một lần, số lượng tài liệu giả đã được cộng lại để xác định tình tiết định khung tăng nặng theo điểm a khoản 3 Điều 341 BLHS (theo quan điểm này số lượng tài liệu giả của A được xác định là 08 tài liệu, không tính số bản sao tài liệu giả đã được chứng thực). Do vậy, A không phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”. 

Quan điểm thứ hai : A thực thi 02 lần phạm tội độc lập, những lần này đều chưa bị truy cứu nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự, còn thời hiệu nên cần truy tố A theo điểm a khoản 3 Điều 341 BLHS, ngoài những A còn phải chịu diễn biến tăng nặng “ phạm tội 02 lần trở lên ” theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS ( kể cả trường hợp chỉ Tóm lại A làm giả 08 tài liệu ). Quan điểm này lập luận dựa trên những văn bản hướng dẫn vận dụng diễn biến tăng nặng “ phạm tội 02 lần trở lên ” so với những tội phạm xâm phạm chiếm hữu, tội phạm về ma túy như Nghị quyết số 02/2003 / NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của HĐTP TANDTC ; Thông tư liên tịch số 17/2007 / TTLT ngày 24/12/2007 của Bộ công an, VKSND tối cao, TANDTC tối cao, Bộ Tư pháp ; Công văn số 64 / TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao ” .
Trong trường hợp nêu trên, tôi đồng ý chấp thuận với quan điểm thứ hai. Mong nhận được quan điểm phản hồi của đồng nghiệp. / .

Nguyễn Minh Nguyệt– VKSND thành phố Bắc Giang

Source: https://vh2.com.vn
Category : Đánh Giá